Bửu Điện có hình Quả Càn Khôn, tượng Ngũ Chi và bảy cái ngai tại Từ Lâm Tự Gò Kén Tây Ninh (1926).
Trích từ: ĐẠO SỬ [Nữ Đầu Sư Hương Hiếu biên soạn – 15-10-Đinh Dậu (1957)]

)
)(
__)_(__
__(_____)__
(((_________)))
) ׀ ( |

)
)(
__)_(__
__(_____)__
(((_________)))
) ׀ ( |

)
)(
__)_(__
__(_____)__
(((_________)))
) ׀ ( |

)
)(
__)_(__
__(_____)__
(((_________)))
) ׀ ( |

)
)(
__)_(__
__(_____)__
(((_________)))
) ׀ ( |

)
)(
__)_(__
__(_____)__
(((_________)))
) ׀ ( |

hư Hiền thân kính,
Người năng động, bay nhảy, thường không quan tâm đến thời gian qua nhanh hay chậm. Khi có tuổi, tính điềm đạm, trầm tư, để ý từng việc làm, thường cảm nhận thời gian trôi nhanh như bóng câu qua cửa sổ, đến nỗi không nắm bắt kịp công việc đang làm do "lực bất tòng tâm". Một trăm năm, đời người ngắn ngủi, vô thường.
Thật vậy, năm mươi năm trước, khi quê hương vừa chấm dứt khói lửa, tuổi Đạo Cao Đài khoảng năm mươi. Chúng tôi nghĩ, năm mươi năm sau, cơ Đạo sẽ phổ thông khắp vạn quốc theo tiên tri: "…Nam, Bắc cùng rồi ra ngoại quốc, Chủ quyền Chơn Đạo một mình Ta". Thế nhưng Thầy chưa đáp ứng dễ dàng như vậy. Có thể đó là thử thách lớn lao cho con cái Người hãy còn mê muội chạy theo tà quyền vì danh, vì lợi. Dù Thầy thương yêu nhân loại, nhưng "….Những điều ngăn trở đều do nơi tiền khiên của cả chúng sanh…". Thầy hằng dạy rằng: "…Thầy đã thả một lũ hổ lang ở lộn với các con, Thầy hằng xúi chúng nó thừa dịp mà cắn xé các con, song trước Thầy đã cho các con mặc một bộ thiết giáp; chúng nó chẳng hề thấy đăng, là đạo đức của các con". Và
Thầy cũng khuyên rằng: "Thầy dạy các con một điều là biết tranh đấu cùng Thầy; hễ nó tấn thì mình chống, cân sức cho bằng hay là trổi hơn mới đắc thắng. Các con chịu nổi thì Đạo thành, còn các con ngã thì Đạo suy. Liệu lấy!". (TNHT, Q1)
Qua cơn khảo đảo, cơ duyên đưa đẩy, mấy hột Thánh cốc của Thầy may mắn được gieo khắp năm châu, bốn bể. Năm nay, Đạo lịch đánh dấu Năm thứ Một Trăm. Toàn đạo vui mừng Kỷ niệm Ngày Khai Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Thưa chư Hiền,
Bản Tin số 36 nầy, nhằm ôn lại những "dòng sử Đạo" thăng trầm, biết bao gây trở, cam go, mà chư Tiền Khai vẫn kiên tâm theo Thầy dấn thân lập công phổ độ. Hơn nữa, do Thiên căn nhiều kiếp, chư Vị được Ơn Trên khai thông trí huệ, tiếp nhận từng lời dạy dỗ, lãnh hội từng câu chỉ bảo trong việc truyền Đạo. Do đó, là kẻ hậu bối, chúng ta nên có bổn phận tìm hiểu, ghi nhớ và đền đáp một cách thực tiễn thâm ân vô lượng của Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu và các Đấng Thiêng Liêng đã chọn khai sáng cho chúng ta và cả Nhơn Loại mối Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ quí báu vô tiền khoán hậu tại nước Việt Nam nầy.
Nội dung Bản Tin xin gửi đến đồng đạo những Thông Điệp lớn lao của Đức Chí Tôn qua Thánh Ngôn, những lời Thuyết Đạo của Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc, Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt, Đức Thượng Sanh Cao Hoài Sang và các vị Tiền Khai, hy vọng đó là những giọt Cam Lồ thấm thấu vào tâm hồn chúng ta trong những ngày đầu Xuân mới, như liều thuốc Cứu Rỗi và Chúc Lành vạn loại. Bạn đọc sẽ ngân nga mấy vần Thơ Xuân của Ái Nhân, trích trong Ái Nhân Thi Tập; thơ của Mỹ Phượng và nhiều tiết mục khác cần theo dõi....
Ngoài ra, quý Hiền còn chia sẻ nhiều tin tức cùng hình ảnh sinh hoạt của Tộc Đạo Sydney. Theo đó, Tộc Đạo ghi nhận sự đóng góp đáng giá của Ban Công Vụ và đồng đạo trong công cuộc đại tu bổ Thánh Thất New South Wales, sau 33 năm xây dựng.
Sau cùng, trước thềm năm mới Ất Tỵ (2025), thay mặt BBT Bản Tin Hòa Hiệp, trân trọng cảm tạ sự quan tâm theo dõi của chư Hiền đọc giả. Cầu xin Ơn Trên ban bố tràn đầy hồng ân cho chư Hiền cùng quý quyến luôn An Lạc và Hạnh Phúc.
Ban Biên Tập / BTHH
|

Tây Ninh, 1 Février 1927 (01-01-Ðinh Mão)
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ VIẾT CAO ÐÀI
GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG
Các con... Mừng các con.
Trung, Cư, Tắc, mấy con nhớ đêm nay năm rồi thể nào, còn nay ra thể nào chăng?
Trịnh thị Ái Nữ, Hiếu, hai con đã thấy THẦY giữ lời hứa thế nào chăng?
THẦY lập Ðạo năm rồi ngày nầy, thì Môn Đệ của THẦY chỉ có 12 đứa, mà bốn đứa đã vào nơi tay Chúa Quỉ, chỉ còn lại tám. Trong tám đứa thì lại còn một đôi đứa biếng nhác mà không hành Đạo. THẦY hỏi nếu chẳng phải quyền hành THẦY, dầu cho một vị Phật thiệt lớn giáng thế đi nữa, cũng chưa có phương chi mà độ hơn bốn muôn sanh linh, nhờ tay có sáu đứa Môn Đệ trong một năm cho đặng bao giờ.
THẦY vui mầng, THẦY khen tặng hết cả bốn muôn Môn Đệ của THẦY. Thơ, con đã ngoan Đạo, mà sự ngoan Đạo của con đó còn độ lắm kẻ, THẦY khen con.
Bính, THẦY thưởng công con, cho lên chức Phối Sư, THẦY cám cảnh lòng yêu mến con, THẦY cám ơn lòng đạo đức con.
Sanh linh còn nhờ công con mà thoát qua khổ hải.
Bản, THẦY thăng chức Giáo Sư. Trò, THẦY cho lên chức Giáo Hữu, nhiều đứa khác nữa, ngày mùng chín THẦY biểu đòi về cho Thái Bạch phong thưởng.
THẦY ban ơn trọn cả các con, dầu không có mặt tại đây cũng vậy. THẦY giở cơ lên, các con đều chun ngang qua cho THẦY ban phép lành; THẦY cầu cho các con đặng ngoan đạo như Thơ vậy, sửa mình cho nên chí thánh, vì Ðạo năm nay sẽ rõ thấu hoàn cầu, Môn Đệ tăng thêm hằng hà sa số, phận sự các con lại càng nặng nề hơn nữa, nhưng các con nhớ biết thương THẦY, mà hễ thương THẦY thì ắt thương Ðạo, mà hễ biết thương Ðạo thì thương hết chúng sanh. Các con biết THẦY là trọng thì biết trọng Ðạo, mà hễ trọng Ðạo thì cũng phải trọng cả chúng sanh.
Trong tháng Giêng nầy, Thái Bạch sẽ hội Nữ Phái đặng lập cho hoàn toàn, THẦY trông công các con lắm đó.
THẦY ban ơn cho các con một lần nữa.
THẦY thăng.
Phụ ghi:
1 Février 1927 nhằm ngày 01-02-1927 (âl. 29-12-Bính Dần, đêm Giao Thừa Tết Đinh Mão).
Trích từ Thánh Ngôn Hiệp Tuyển (Bổn Thứ Nhứt Ấn bản năm Đinh Mão 1928) Trang 70-71 (Bài Q.1 / 71)
Thánh giáo khen nhiều Chức Sắc và phong thưởng.◙ |
CHÚ THÍCH:
Tết năm trước, tức là Tết Bính Dần, Ðức Chí Tôn điểm danh 12 môn đệ đầu tiên. (Xin xem lại Chú thích bài Thánh Ngôn 1)
Tết năm nay là Tết Ðinh Mão, Ðức Chí Tôn nói: Nhờ tay có 6 môn đệ lo hành đạo trong một năm mà phổ độ được hơn 40 000 tín đồ. Xin kể tên 6 vị môn đệ nầy ra sau đây:
1. Ngài Ðầu Sư Thượng Trung Nhựt.
2. Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc.
3. Ðức Thượng Phẩm Cao Quỳnh Cư.
4. Ngài Bảo Pháp Nguyễn Trung Hậu.
5. Ngài Hiến Pháp Trương Hữu Ðức.
6. Ngài Giáo Sư Thượng Bản Thanh.
Trong bài Thánh Ngôn nầy, Ðức Chí Tôn lần đầu tiên ban Phép Lành cho các môn đệ.
Trích từ: THÁNH NGÔN HIỆP TUYỂN I & II Hợp nhứt & Chú thích bài 90.
(Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng biên soạn chú thích. năm Canh Thìn - 2000). |
|
Quyền Lập Pháp tức là Quyền Vạn Linh
Một quốc gia biểu lộ sự sanh tồn bằng các quyền năng (fonctions), quyền năng ấy lại phải có cơ quan (organe) để thi hành. Trong cửa Ðạo, muốn biểu lộ sự hoạt động không ngừng của bộ máy Chánh trị cũng có đủ các quyền năng và cơ quan để thi hành quyền năng đó. Quyền năng và cơ quan hiệp lại gọi là trị quyền. Như quyền Lập Pháp tức là Quyền Vạn Linh là một trị quyền. Quyền năng của nó phải biểu lộ ý chí và nguyện vọng của Nhơn sanh, còn cơ quan thì có ba Hội.
Quyền Lập Pháp của Ðời lấy Nghị hội làm cơ quan, gọi là Viện, thường chia ra hai Viện (Lưỡng Viện chế) là: Thứ Dân Nghị Viện hay là Hạ Nghị Viện và Nguyên Lão Nghị Viện hay Thượng Nghị Viện, hay là thống nhất lại thành một viện (Nhứt Viện chế) Quốc Dân Ðại Hội (kêu tắt là Quốc Hội).
Trong nền Ðạo, cơ quan Lập Pháp theo một chế độ khác lạ, là chia ra làm ba Nghị Hội, ta có thể tạm gọi là chế độ ba viện (Tam Viện chế).
Ba Hội ấy là:
1. Hội Nhơn Sanh (Conseil populaire).
2. Hội Thánh (Conseil sacerdotal).
3. Thượng Hội (Haut Conseil).
Ba Hội nầy hiệp lại làm Cơ quan của "Quyền Vạn Linh". |
Trích từ CHÁNH TRỊ ĐẠO Soạn giả: Khai Pháp Trần Duy Nghĩa.◙ |
|
|

Năm Kỷ Tỵ (10-02-1929)
THẦY, các con
Ngày tháng vẫn mỏi mòn, mà đường Ðạo nhắm còn dài đăng đẳng, một xuân qua là một dặm đường phải bước tới, mà Thầy ngảnh lại bước đường của môn đệ Thầy vẫn thấy sụt sè, chớ chưa thấy chi có mòi tấn phát. Dần qua Mẹo lại, Thìn đến Tỵ về, xuân đổi lại xuân thay, năm kề rồi năm mãn. Ôi! Tấc bóng quang âm nhặt thúc, mà xem lại tâm hạnh của mỗi con của Thầy thì nét Ðạo vẫn kém hơn, đức chưa thêm được, tâm chí mòn mỏi lối đường ngay, mà nấu nung về nẻo vạy, e cho nền tảng thiêng liêng đồ sộ phải nghiêng ngửa. Rồi đây các con cũng chưa chắc hết tranh cạnh giành xé nhau, mà làm cho nền Ðạo phải chia tan tành.
Ðạo còn chứa tà vạy, người còn say mối lợi danh thì phương chi cứu chữa bịnh Ðạo cho hết. Thầy cũng lắm đau thương, nhưng cũng chẳng cải sửa chi đặng. Thầy đã giao trách nhậm lớn lao cho mỗi đứa đáng tin cậy; chúng nó chẳng biết điều đình, thì phú mặc tà quái xâm phạm mà thôi.
Ôi! Xuân tàn xuân đến, cái xuân của người đã sắp lụn hao, mà rồi cái xuân của Trời Ðất, nước non cũng chưa chắc là vô cùng vô tận. Các con, nếu biết đời khổ tâm, biết vày vò tình thế, biết chịu kém sút trong nẻo lợi đường danh, biết thiệt mình mà đặng cho kẻ khác, biết đổ lụy cho kẻ vui cười, biết nhọc nhằn trong kế sinh nhai, biết giữ tâm chí cho thanh bạch, đừng nhơ bợn của chẳng nên dùng; biết động mối thương tâm, thương người hơn kể mình thì là các con được tắm gội hồn trong mà về cùng Thầy đó. Nét nào chưa vẹn, khá biết sửa lần chớ nên trì huỡn. Ðạo suy đức kém, tà quái lừng hơi, các con gắng chung tâm xua trục hết lũ vạy tà, thì hiến công lớn cho Thầy đó.
Thầy ban ơn cho các con.
Thăng.
Phụ ghi:
Năm Kỷ Tỵ (10-02-1929) nhằm ngày 10-02-1929 (âl. 01-01-Kỷ Tỵ).
Trích từ Thánh Ngôn Hiệp Tuyển Q.2 bài 62.
Thánh giáo của Chí Tôn quở chư môn đệ nét Ðạo còn kém, đức chưa thêm, e nền Ðạo phải ngửa nghiêng.◙ |
|

 |
của Đức Hộ Pháp |
|
Đền Thánh đêm 30-12 năm Tân Mão (1952)
LỄ GIAO THỪA
CUỐI NĂM TÂN MÃO, ĐẦU NĂM NHÂM THÌN
êm nay là đêm giao thừa, cuối năm Tân Mão bước qua đầu năm Nhâm Thìn, Bần Đạo nhớ lại năm Bính Dần, Đức Chí Tôn đến mở Đạo, làm lễ khai Đạo nhằm ngày 15 tháng 10 năm Bính Dần tới năm Đinh Mão, tức nhiên cũng giờ giao thừa này, Đức Cao Thượng Phẩm và Bần Đạo phò loan, Đức Chí Tôn đến kêu toàn thể con cái của Ngài nam nữ, lớn nhỏ, dặn rằng: Hễ Thầy đưa cái cơ lên, các con chun ngang qua đặng Thầy ban ơn cho nghé! Rồi Ngài xách Bần Đạo và Cao Thượng Phẩm đứng dậy ra giữa Thiên Bàn đưa cơ lên, cả con cái của Ngài đều chun ngang qua, Ngài đã làm một tấn tuồng cảm mến mà chỉ có cây cơ không mà thôi, tấn tuồng ấy làm Bần Đạo cảm xúc quá lẽ. Hễ mỗi người chun ngang qua cái cơ làm như thế vuốt ve mươn trớn vậy. Hạnh phúc thay! cho những người ngộ đạo đã được ân đặc biệt ấy.
Tiếc thay lúc đó con cái của Ngài không đông nhiều như bây giờ. Bần Đạo tiếc chớ phải chi cả thảy toàn thể con cái của Ngài hôm nay được Ngài ban ơn như thế ấy, chỉ nghĩa với một phương pháp cụ thể hữu hình của Ngài, tỏ cái tình thương yêu vô tận.
Tuy vẫn biết và Bần Đạo dám quả quyết rằng: Giờ phút này Đại Từ Phụ đã chung ở với chúng ta. Ấy vậy toàn thể con cái của Ngài định tâm cầu nguyện đặng cho Ngài ban ơn (Toàn thể đều thành tâm cầu nguyện).
Một ông cha thương yêu vô tận hạnh phúc cho chúng ta đã sanh ra lại ngộ đạo. Đấng đã cầm quyền cả Càn Khôn Vũ Trụ nơi tay, làm Chúa cả cái sống cái chết của Càn Khôn Vũ Trụ đến chung ở chúng ta, cái hạnh phúc ấy, cái vinh diệu ấy còn chi hơn nữa. Bởi thế cho nên khi Ngài đến cầm cây linh bút đặng mở chơn truyền của Ngài, những kẻ phàm tâm kia lấy làm lạ lùng và không có thể tưởng tượng đặng, và không có thể tin đặng. Ôi! Một trường ngôn luận buổi nọ biết bao nhiêu kẻ chê bai, khinh rẽ là thế nào. Trong một bài thơ Ngài than như vầy:
"Cười khan mà khóc bởi thương bây,
Chẳng mất một con nghiệt cả bầy.
Biết phận già không chờ chống gậy.
Nương theo con dại mới ra vầy."
Thật vậy, Ngài quá thương con cái mới ra nông nỗi đó, tưởng lòng thương yêu vô tận ấy không thể gì ta tưởng tượng đặng, không thể gì chúng ta biết đặng cái giá trị nồng nàn yêu ái vô biên vô tận ấy, chỉ "vì thương con dại mới ra vầy" câu ấy nồng nàn thấm thúy đau đớn làm sao, câu nói đó là vì thương con dại của Ngài, mà toàn thể anh em chúng ta có hiểu cái tiếng dại ấy là thế nào không?
Bần Đạo xin nhắc lại lời nói của Đức Chúa Jésus Christ đã nói hạnh phúc thay cho những kẻ khờ khạo, vì nó được quyền năng của ông Cha của Thiêng Liêng kia binh vực nó, hồi nó sống đây nó dại khờ, nhưng không phải cái dại ấy mà nó cô độc, bởi vì nó còn ông Cha oai quyền vô tận vô biên, Ổng thay thế cái khôn cho nó. Hạnh phúc thay cho những kẻ yếu hèn, những kẻ yếu hèn với những người sang cả, khi trở về cùng Cha của họ nơi nước Hằng Sống của Đức Chí Tôn đã dành để cho con cái đau khổ của Ngài, cái giá trị vẫn khác. Khốn khổ thay những kẻ miệt sát kẻ yếu hèn, khốn khổ thay cho những kẻ áp bức, hiếp đáp những người cô thế, trẻ con, góa bụa, tật nguyền, bởi vì nó miệt sát nhục mạ con cái của Ngài tức là nhục mạ Đấng Tạo đoan, như vậy là còn tội tình nào lớn hơn điều ấy.
Nếu quả nhiên sắp con của Ngài phải chịu hèn hạ khổ não, ngu khờ là tại Ngài muốn vậy, Ngài muốn dành để cái oai quyền binh vực của Ngài cho chúng nó.
Ấy vậy muốn tránh khỏi chỉ có một điều thôi, phải thương yêu con cái của Ngài được như Ngài vậy, nếu được cái tình thương yêu vô tận tại thế này, được cái tình thâm yêu ái vô biên ấy là một kiếp sanh hạnh phúc của chúng ta hơn hết. Cả thảy đều tịnh tâm cầu nguyện cho Bần Đạo ban phước lành (Đức Hộ Pháp ban phước lành).
Sang cả nơi mặt thế gian này, Bần Đạo nói ngày chúng ta qui rồi với một cái hòm, với một khoảnh đất, với một cái lổ mà thôi. Sang trọng vinh hiển mà làm gì? giàu có mà làm gì? Phải kiếm món quí báu hơn nữa là kiếm cái quyền Thiêng Liêng Hằng Sống của mình đấy.
Phụ ghi:
Ngày âl. 30-12-Tân Mão nhằm ngày (dl. 26-01-1952)
Trích từ Lời Thuyết Đạo của Đức Hộ Pháp Q.4 bài 35. Lễ Giao Thừa cuối năm Tân Mão, đầu năm Nhâm Thìn.◙ |
NGƯỜI TU HÀNH
Chẳng ham danh lợi chẳng mê trần,
Thạch động thanh nhàn thân độ thân.
Biển Bắc mặc dầu con sóng bủa,
Non Nam chi quản đám mây vần.
Ngày ăn hai bữa nuôi tinh huyết,
Đêm ngủ ba canh dưỡng khí thần.
Quyết đoán công phu thân vận động,
Đường Tiên cửa Phật mới mong gần.
PHẠM HỘ PHÁP
(1935) |
Trích từ THÔNG TIN số13, trang 6.
Phát hành ngày 25-08-Canh Tuất (dl. 25-09-1970).◙ |
|
|

 |
của Đức Hộ Pháp |
|
Tại Ðền Thánh, đêm mồng 2 tháng giêng năm Mậu Tý (dl. 11-02-1948)
NGÀY XUÂN LÀ NGÀY PHỤC SINH CỦA VẠN VẬT
ần Ðạo không thể đi cùng mỗi nhà của toàn cả Chức Sắc Thiên Phong và mấy em Nam Nữ đặng viếng thăm trong ba ngày xuân nhựt. Một mảnh thân muốn biến hóa ra cả muôn hình xác, nhưng không thể đặng.
Vậy thời Bần Ðạo cũng để một đôi lời cho mấy em, mấy con Nam Nữ, mấy anh mấy chị có mặt đảnh lễ tại đây biết rằng: Buổi nào tinh thần của Bần Ðạo cũng ở bên cạnh mỗi người cả thảy.
Một điều mà Bần Ðạo mơ ước hơn hết là ngày giờ nào thong dong, Bần Ðạo được vui thú thanh nhàn, nay đi nhà nầy ở một ngày, một bữa, mai đi nhà kia ở một đôi lát. Ngày nào đến cảnh an nhàn mà Bần Ðạo được đạt vọng dường ấy, thì tưởng rằng không còn hạnh phúc nào hơn nữa. Bần Ðạo tưởng mảnh thân nầy có phương thế đồng sống chung với mấy em trong cảnh gia đình ấm lạnh để cùng hiểu nhau những nỗi tân khổ sầu buồn thì Bần Ðạo rất hữu hạnh mà được chia mảy mún cũng đặng, dầu cắn hột muối hay ăn hột cơm rơi với mấy em, thì tưởng trọn kiếp sống của Bần Ðạo không có cảnh vinh quang phú quí nào trên thế gian nầy đối đặng.
Cả thảy đến thăm Bần Ðạo, mà Bần Ðạo đi thăm lại không đặng, theo đạo pháp cho là thất lễ. Xin cả thảy nên biết cái cảnh ngộ và tha thứ dùm cho.
Ngày xuân nói đến tiếng xuân, miệng nói tiếng xuân là nói tiếng sống, vạn vật ngày xuân nầy là sống là ngày phục sinh. Qua mơ ước tâm hồn của cả thảy trong một năm già cỗi, trong lúc xuân đến, cây cối nở lá nở bông, tốt tươi trở lại, tức nhiên là được phục sinh lại thì cả tâm hồn của chúng ta cũng phục sinh như thế.
Mấy em suy gẫm cái thân sanh của chúng ta là đồng sanh với vạn vật, mà vạn vật đã phục sinh thì thân hình của chúng sanh, của chúng ta, của cả thảy Nam, Nữ cũng đồng phục sinh lại. Tâm hồn của chúng ta trong một năm mờ mệt, khổ não, nhọc nhằn, trong cảnh tang thương trần thế, nay xuân về, mấy em đến nhà Ðại Từ Phụ, tức là Suối Vĩnh Sanh của tâm hồn mấy em. Qua thành tâm cầu xin Ðại Từ Phụ ban ơn cho mấy em được phục sinh trong Thánh chất của Người.
Chắc chắn cả thảy đều được hạnh phúc hiển nhiên, đương thời hay là trong cảnh xương tàn cốt rũ vì đã được hồng ân của Chí Tôn ban cho về già, tức là dưới thế nầy sẽ được an nhàn cả tâm thần và hình thể. Mong sao cả thảy được mau phục sinh mới trong Thánh chất của Chí Tôn đó vậy.
Phụ ghi:
Ngày âl. 15-10-Canh Dần nhằm ngày (dl. 24-11-1950).
Trích từ Lời Thuyết Đạo của Đức Hộ Pháp Q.2 bài 02. Ngày xuân là ngày phục sinh của vạn vật.◙ |
|

Châu Tri Tân Xuân năm Tân Mùi |
Tòa Thánh, 20 tháng chạp Canh Ngọ (7 Février 1931) |
|

|
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ |
TÒA THÁNH |
(Ðệ Ngũ Niên) |
N0: 3 |
|
Tòa Thánh, 20 tháng chạp Canh Ngọ (7 Février 1931)
Kính cùng
- Chư vị Chủ Thánh Thất,
- Chư vị Ðầu Họ Ðạo,
- Ðầu Quận Ðạo,
- Chư Chức Sắc Thiên Phong lưỡng phái,
- Chư Ðạo Hữu Nam Nữ,
- Chư Hiền Hữu, Ðạo Tỷ, Ðạo Muội |
Vừng nhựt nguyệt vần xây
Bóng thiều quang nhặt thúc.
Ngảnh lại hứng xuân Canh Ngọ chưa đặng bao lâu, nay đã sắp sang Tân Mùi, nền Ðại Ðạo bước qua năm thứ sáu.
Công trình Chư Ðạo Hữu biết bao:
Lắm phen vày vò thân thể, hằng buổi mòn mỏi tinh thần, đặng khuyến nhủ nhau làm lành lánh dữ, cải ác tùng lương, giữ dạ sắt đinh thờ Trời, kỉnh Phật.
Tôi thay mặt Hội Thánh cảm tạ công trình của Chư Ðạo Hữu và hết lòng cầu nguyện Ðấng Chí Tôn ban ơn lành cho Chư Ðạo Hữu lưỡng phái.
Rồi kế đây, đông mãn, xuân sang, chầu lễ Ngươn Ðán, Hội Thánh chúc mừng Tân Xuân cho cả thảy chư Ðạo Hữu lưỡng phái.
Chúng ta vui mừng vì có Ðức Lý Giáo Tông cầm quyền. Chúng ta cầu nguyện xin Ngài đem sức Thiêng liêng giúp anh em chị em chúng ta siêng năng sốt sắng đặng mau lập thành Chơn Ðạo.
Tôi chúc mừng cho anh em, chị em, đặng tinh thần minh mẫn, hết lòng hòa nhã, thảo thuận, đặng trông vào cảnh thiên nhiên, biết rõ cơ mầu nhiệm, vun trồng cây đức, độ rỗi nhơn sanh lo làm lành, tránh đường hung ác, lánh xa cuộc loạn ly làm cho đổ máu nhơn sanh, khiến cho Thiên sầu, Ðịa thảm.
Làm sao cho cảm lòng Trời,
Sửa cơn ly loạn ra đời an vui.
Sửa thế nguy ra an mới vẹn,
Lấy từ bi, vun quén cây nhân.
Ðừng ham gây oán chác hờn,
Phải hơn đạo đức chớ hơn tài tình.
Chi chi cũng có khuôn linh ...... |
Nay kỉnh đốn
(dl.13/10/1968)
THƯỢNG ĐẦU SƯ
Thượng Trung Nhựt |
|
Trích từ Tiểu Sử Ðức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt.
Châu Tri Xuân số 3 ngày 20-12-Canh Ngọ (dl. 07-02-1931).◙ |
|

 |
của ÐỨC THƯỢNG SANH CAO HOÀI SANG |
|
DIỄN VĂN
CHÚC TẾT XUÂN MẬU TUẤT
Sau buổi lễ Chung Niên - Tháng Chạp Ðinh Dậu
Thưa chư Chức sắc lưỡng phái,
Thưa chư Chức việc và Ðạo hữu Nam Nữ,
ăm Ðinh Dậu hầu mãn, xuân Mậu Tuất sắp đến, ngày tháng như thoi đưa, không mấy hôm nữa chúng ta sẽ bước qua mùa xuân vui tươi đẹp đẽ, để cho đời và Ðạo phấn khởi trên đường tiến triển về hình thức lẫn tinh thần.
Một năm đã qua, khác hơn ngoài mặt đời, Chức sắc trong Hội Thánh không tính sổ chung niên để biết lộc vị tấn hay thối, vốn liếng lỗ hay lời, mùa màng được hay thất mà chỉ cân phân về hạnh đức sánh với năm trước có được tiến triển chăng? Công quả có được xứng đáng hơn chăng? Sau nữa hành Ðạo có được ổn định và hoàn mỹ hơn chăng?
Sự so sánh ấy hầu đem lại một bằng chứng hơn hay kém, chúng ta cũng cứ gắng sức nhiều hơn nữa, đặng cho tinh thần đạo đức càng được nâng cao thêm mãi, chúng ta mới có thể dìu cơ phổ độ hầu cứu vớt nhơn sanh cho kịp kỳ theo Thiên ý của Ðức CHÍ-TÔN mong mỏi.
Cần nhứt là chúng ta nên lưu tâm sự nhận định tình thế của Ðạo chẳng căn cứ theo bề ngoài mà phải căn cứ theo tinh thần thiệt mặt của Ðạo là cái căn bản của ÐẠO ÐỨC VÔ HÌNH đã được un đúc từ buổi ban sơ, và nhờ thế Thánh Thể nơi mặt thế của Ðức CHÍ-TÔN mới cảm hóa nhơn tâm và bảo tồn nghiệp Ðạo...
Chức sắc Hiệp Thiên Ðài về đảm đương việc Ðạo được hơn chín tháng nay. Chúng tôi không dám tự hào cho là đủ tài, đủ đức để làm tròn nhiệm vụ nặng nề, nhưng đã chịu sứ mạng Thiêng liêng, chúng tôi cứ tin nơi sự trợ giúp của Ơn Trên, quyết để tâm trí làm việc chung sức với toàn thể Chức sắc đặng xoay chiều đổi hướng thế nào cho được thuận với đời, hiệp với Ðạo, tránh cái hư, tìm cái nên, gắng sức làm tôi tớ cho Ðức CHÍ-TÔN mong thực hành chủ nghĩa độ đời và gieo sự thương yêu trong cửa Ðạo.
Hằng ngày chúng tôi vẫn cầu nguyện với Ðại Từ Phụ bố trí chúng tôi đặng sáng suốt để làm tròn phận sự, một phận sự mà chúng tôi tự biết là quá sức của chúng tôi.
Vì vậy chúng tôi vẫn canh cánh bên lòng nỗi lo lắng về tiền đồ của nghiệp Ðạo. Chúng tôi ước mong toàn thể Chức sắc, Chức việc thông cảm nỗi ưu tư ấy, để tâm giúp đỡ lẫn nhau, hầu đem chiếc thuyền từ đến chỗ thuận nẻo êm dòng, đưa con cái của Ðại Từ Phụ cho đến tận bên bờ giác.
Thưa chư Chức sắc lưỡng phái, chúng ta mang nặng xác phàm thì dầu cho ai cũng không tránh khỏi sơ sót. Cũng may là chúng ta đã làm việc trong tinh thần tập thể, hiệp tâm chung trí, nghe nhau, chìu nhau, ai cũng quyết chí làm nên cho Ðạo.
Nhờ vậy, dầu có sơ sót, thiết tưởng sự sơ sót cũng chẳng đến nỗi nào.
Ngoài ra, chúng tôi không ham lảnh lấy lời khen mà thiếu thành thực, trái lại chúng tôi muốn nghe những lời cải sửa đúng đắn mà không có ác ý và cũng đồng một quan niệm, chúng ta nên thành thật cải sửa lẫn nhau chúng ta mới mau tiến triển trên đường đạo đức.
Năm cũ sắp tàn, thời gian trôi qua thấm thoát, tuổi chẳng chờ người mà phận sự còn bộn bề chưa biết đâu là cứu cánh.
Một đại thi gia ngày xưa của Việt Nam đã tiếc thời gian trôi qua mà không nên việc trong hai câu:
"Vô thành vãng nhựt tư nan tích,
Dĩ lão đương xuân sấm mạc sầu."
Thích nôm:
Ngày qua đáng tiếc chưa nên việc,
Già đến đừng phiền với chút xuân."
Công việc chúng tôi đã thực hành trong năm kể từ ngày Rằm tháng tư, tuy đem lại một kết quả chưa gọi là hoàn toàn tốt đẹp theo ý muốn, nhưng chúng tôi đã gắng sức làm việc đã có giúp ích phần nào cho đời cho Ðạo, thì những ngày trôi qua cũng không phải đáng tiếc.
Ðối với Ðạo, năm Ðinh Dậu là năm đáng buồn nhứt mà cũng đáng vui nhứt.
Buồn là vì có biến chuyển xảy ra trong lúc đầu năm làm cho con cái của Ðạo phải chịu thống khổ, nhân tâm ly tán tình thế đảo điên.
Vui là vì nhờ quyền năng vô đối của Ơn Trên mà cơ phục hưng lần hồi thực hiện, để cho toàn Ðạo vững tâm lo bề tu niệm, Hội Thánh tiếp tục điều khiển việc Ðạo và phục vụ nhơn sanh.
Trong cửa Ðạo về phần vật chất, nhơn sanh còn lắm vất vả, nhưng cũng vẫn hy sinh chịu khổ hạnh đủ mọi phương diện để giúp phần xây dựng cho nền chánh giáo.
Chúng tôi không khỏi ngậm ngùi khi mà Hội Thánh thấy chưa có thể lấp bằng những chỗ thiếu thốn của bao nhiêu đạo hữu hiến thân cho Ðạo, mặc dầu chúng tôi đã cố gắng cải thiện phần nào tình trạng ấy.
Chúng tôi vẫn lưu tâm lo tìm phương chước đem lại cho đời sống của bổn Ðạo một sự an ủi thiết thực, cần yếu và chúng tôi tin chắc rằng trong sự cộng tác thành thật của lưỡng đài Hiệp Thiên Ðài và Cửu Trùng Ðài, chúng ta hy vọng một tương lai vui tươi tốt đẹp hơn.
Hiện giờ cùng chung chịu cảnh thanh bần của Ðạo, chúng tôi phải tiết kiệm đồng tiền của Ðạo hết sức cân phân lợi hại trước khi tiêu phí, vì đó là huyết mạch của nhơn sanh, chúng ta không có quyền phung phí vô lối. Chúng tôi nhận thấy toàn thể Hội Thánh đã gắng công phần nào về mặt tiết kiệm. Vậy chúng ta cố gắng thêm mãi và tin tưởng nơi tình yêu thương cao cả của Ðại Từ Phụ, chúng ta nên bằng lòng với cái chi chúng ta đương có, để tâm lo tròn nhiệm vụ đối với Ðạo.
Ðó là điều cần yếu trước nhất, chúng ta chỉ vì lo không nhất tâm nhất trí mà phải phụ lòng tin cậy của Ðại Từ Phụ mà thôi.
Vậy cúng buổi lễ chung niên, chúng ta kính cẩn dâng lên Ðại Từ Phụ và Ðại Từ Mẫu tấm lòng chơn thật, thương Ðạo mến Thầy. Cầu xin hai Ðấng Tạo Ðoan tối cao hỉ xả tất cả cái gì còn thô sơ thiếu kém và trợ giúp chúng ta đi đến chỗ thành công mỹ mãn.
Hôm nay nhân buổi lễ nầy, thay mặt cho Chức sắc Hiệp Thiên Ðài, tôi có lời cầu chúc toàn thể Chức sắc, Chức việc lưỡng phái Hành Chánh và Phước Thiện cùng chư Thiện nam Tín nữ được đầy đủ sức khỏe, gia đình hòa hiệp đầm ấm vui tươi và ngưỡng xin Ðức CHÍ-TÔN và Ðức PHẬT-MẪU ban đầy ân huệ cho toàn Ðạo, sau nữa dìu dắt cả anh chị em vững bước trên đường thiện niệm để cùng nhau chung lo giữ gìn đại nghiệp của Ðạo.
TM. Toàn thể Chức sắc Hiệp Thiên Ðài
Thượng Sanh
Trích từ Tiểu Sử và Lời Thuyết Đạo của Đức Thượng Sanh Cao Hoài Sang.
Diễn Văn - Chúc Tết Xuân Mậu Tuất, 1958.◙ |
Thi Xuân
.jpg) |
Thanh thoát rừng thung tiếng gió ngàn,
Muôn hồng ngàn tía báo Xuân sang.
Xung xăng khóm liễu khoe cành biếc,
Hớn hở vườn mai điểm nhụy vàng.
Chan rưới ân hồng Trời đổi sắc,
Phô trương cẩm tú đất thay màn.
Thái bình chung hưởng cầu trăm họ,
Đời Đạo trùng hưng trọn vẻ vang..
CAO THƯỢNG SANH
Tân Sửu 1961 |
Trích từ Thông Tin số 116 trang 6, phát hành ngày 25-01-Ất Mão (dl. 07-03-1975).◙ |
|
|

 |
của Ngài Hiến Pháp Hiệp Thiên Đài |
|
DIỄN VĂN ĐÁP TỪ CỦA NGÀI HIẾN PHÁP
QUYỀN CHƯỞNG QUẢN HIỆP THIÊN ĐÀI ĐỌC TRONG DỊP LỄ TẤN PHONG
NGÀY 21 THÁNG 5 TÂN HỢI ( DL. 13/6/1971) TẠI ĐẠI ĐỒNG XÃ
Kính thưa Hội Thánh Hiệp Thiên, Cửu Trùng và Phước Thiện,
Kính thưa Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa,
Kính thưa Quý Phái Đoàn Chánh Phủ,
Kính thưa Quý vị Ngoại Giao Đoàn,
Kính thưa Quý đoàn thể Tôn Giáo bạn,
Kính thưa Quý Quan Khách,
Kính thưa Quý Đại Diện báo chí,
Kính thưa Trung Tá Tỉnh Trưởng và Chánh quyền địa phương,
Kính thưa chư Chức Sắc, Chức Việc và toàn Đạo Nam, Nữ.
hơn danh Hội Thánh TÒA THÁNH TÂY NINH và nhơn danh HIẾN PHÁP Tân Phong Quyền CHƯỞNG QUẢN HIỆP THIÊN ĐÀI, Tôi rất hân hạnh và xin chơn thành cảm tạ thạnh tình của chư quý liệt vị đã có lòng huệ cố đến chung vui cùng chúng tôi trong cuộc lễ tấn phong hôm nay. Sự hiện diện nơi đây của chư quý liệt vị làm tăng phần khích lệ và phấn khởi tinh thần của chúng tôi.
Kính thưa chư quý liệt vị,
Từ ngày lập ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ đến nay kể đã 46 năm, hệ thống tổ chức của Toà Thánh Tây Ninh đều căn cứ vào luật pháp chơn truyền mà lập thành Hội Thánh, trên có một vị Chức Sắc cao cấp nhứt trong Đạo cầm quyền thống lãnh toàn Đạo, như Đức HỘ PHÁP Phạm Công Tắc chẳng hạn, kế đó là Đức THƯỢNG PHẨM Cao Quỳnh Cư và Đức THƯỢNG SANH Cao Hoài Sang, nhưng hôm nay cả ba vị Chức Sắc lớn ấy đều Qui Thiên hết, nên mới đến vai tuồng của Thập Nhị Thời Quân phải đảm đương trọng trách cầm quyền Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài là quyền tối cao của Hội Thánh đương kim. Điều ấy cũng do theo công lệ "tiền tấn hậu kế".
Chúng tôi xin chơn thành thú thật rằng chúng tôi còn kém phần tài đức, nhưng giờ này sứ mạng Thiêng Liêng đã đến tay, không lẽ trốn trách nhiệm được, nên cực chẳng đã phải nghiêng vai lãnh lấy gánh nặng cùng toàn thể tín hữu và nguyện đem hết tâm lực và thiện chí sẵn có để xây dựng và bảo tồn đại nghiệp Đạo cho ra thiệt tướng hầu làm bóng mát che cho toàn thể nhân loại có nơi nương tựa, vì Đạo Trời không những chan rưới hồng ân riêng cho đồng bào Việt Nam ta mà thôi, mà còn ban bố khắp Đại Đồng Thế Giới nữa. Tôi có cảm giác rằng ngày nào bóng cờ ĐẠI ĐẠO bay khắp bốn phương là ngày ấy nhơn sanh sẽ được chung hưởng thanh bình hạnh phúc. Tôi không nói quá lời đâu, vì tôi biết chắc rằng Đức THƯỢNG ĐẾ không gạt ai hết, nhứt là đám con cái của Đức Ngài khi Đức Ngài đến
mở Đạo kỳ ba để tận độ chúng sanh và chín mươi hai ức nguyên nhân qui hồi cựu vị. Lại còn có Tân Ước giữa Trời và Người trong kỳ phổ độ thứ ba nầy. Nhưng thay vì tuyên bố như Đức Phật ngày xưa là "Thiên Thượng Thiên Hạ duy ngã độc tôn" nay Tân Ước này lại tuyên bố "Thiên Thượng Thiên Hạ, bác ái công bình", nghĩa là Trên Trời dưới Thiên Hạ, lấy Bác Ái và Công Bình làm tôn chỉ và có câu: "Ngã Thiên thị thính" (Trời và Ta nghe thấy) tức là Trời và Người thông công đó vậy.
Tân Ước trên đây đã nêu rõ tôn chỉ cao siêu của ĐẠI ĐẠO. Nhân sanh chỉ có cố gắng thực hiện tôn chỉ ấy cho kỳ được thì cái chơn hạnh phúc sẽ đến với mình.
Thoạt tiên nghe qua tôn chỉ cao siêu, ai cũng cho là điều rất khó thực hiện. Nhưng, với sức mạnh vô đối của con người, khi họ đoàn kết nhau lại thành khối, thì bất cứ việc gì họ cũng đều vượt qua được hết. Có câu rằng: "Thế thượng vô nan sự" (Trên đời không việc gì khó hết, duy tại con người không cố gắng mà thôi.)
Nói như thế tức là con người có thể tạo lấy hạnh phúc cho mình sao? Thưa thật vậy, nếu muốn thì được (Vouloir c’est pouvoir, câu phương ngôn Pháp) tuy nhiên xin can ai nấy đừng muốn sự quấy, vì sự quấy không bao giờ đem lại hạnh phúc, mà trái lại là sự phá hoại.
Kính thưa chư quý liệt vị,
Có lẽ sống trên cõi trần gian này, điều nguyện vọng của chúng ta đều gần giống nhau hết.
Vậy thử hỏi nguyện vọng đại khái là gì?
Thưa: Một là đời sống vui tươi, sung sướng, đầy đủ tự do no ấm.
Hai là phải có danh gì với non sông đất nước.
Ba là đầy hạnh phúc về vật chất lẫn tinh thần.
Về đời sống vật chất, cá nhân thiết tưởng ai cũng có thể tạo ra được mà hưởng. Còn về đời sống tinh thần, thì cần phải đoàn kết nhau thành khốiI, muôn triệu người như một để kiến tạo những gì có thể đem lại chơn hạnh phúc cho kiếp sống con người. Hạnh phúc ấy ngoài lẽ Trời ra, thì không phải là chơn hạnh phúc. Vậy nhơn loại muốn hưởng chơn hạnh phúc thì phải noi theo lẽ Trời, vì thế mà con người phải có sứ mạng Thể Thiên Hành Đạo, như tất cả Tín Đồ Đạo Cao Đài chúng tôi, dầu lớn dầu nhỏ, đều lãnh sứ mạng Thiêng Liêng của Đạo Trời để tạo lấy chơn hạnh phúc cho mình và cho toàn nhơn loại, và cũng không quên kêu gọi tất cả đồng bào các giới cùng đến chung hưởng với chúng tôi.
Ngày nào toàn thể dân tộc Việt Nam nói riêng và toàn thể Thế Giới nói chung biết nghe theo tiếng gọi Thiêng Liêng mà đến chung hiệp với chúng tôi để xây dựng Đạo Trời cho ra thiệt tướng như ý Trời đã định, thì ngày ấy sẽ xuất hiện một cảnh Thiên Đàng tại thế.
Kính thưa chư quý liệt vị,
Trước khi dứt lời, một lần nữa tôi xin trân trọng và chân thành cảm tạ quý liệt vị, và xin thành tâm cầu nguyện Ơn Trên ban phước lành cho toàn thể chư quý liệt vị và quý quyến được dồi dào sức khoẻ và nhiều may mắn.
Nay kính,
HIẾN PHÁP
QUYỀN CHƯỞNG QUẢN HIỆP THIÊN ĐÀI
[Thông Tin số 30 trang 25-27, phát hành ngày 25-05-Tân Hợi (dl. 17-06-1971)]
Trích từ Huấn Từ của Ngài Hiến Pháp Hiệp Thiên Đài, trang 60-63).
Bản in ronéo 1970 do Phan Thanh Liêm và Huỳnh Văn Chợ thực hiện.◙ |
|

 |
của Ngài Hiến Đạo Hiệp Thiên Đài |
|
Huấn Từ của Ngài Hiến Đạo Hiệp Thiên Đài
nhơn dịp Lễ Khánh Thành Thánh Thất Gia Bình (Hậu Nghĩa)
ngày 21 tháng 4 năm 1972 (8 tháng 3 Nhâm Tý)
Tìm Hiểu Nghĩa Thánh Ngôn
uí vị thường xem Thánh Ngôn mà có mấy ai để ý tìm hiểu nghĩa lý sâu rộng.
Đây tôi xin trích một bài Thánh Ngôn của Đức Chí Tôn ngày 5 tháng 6 năm Bính Dần (1926) để tìm ý nghĩa.
Chí Tôn dạy:
Sự chơn thật và sự giả dối, mắt phàm các con đâu có thể phân biệt đặng; một trường thử Thánh, Tiên, Phật vì vậy mà phải lập nơi thế gian nầy, nếu buổi sanh tiền dầu cho một kẻ phàm tục tội lỗi biết đặng cơ quan mầu nhiệm của đấng Chí Tôn là Trời đã sắp đặt, thì cũng chẳng dám gây ra tội lỗi mà thôi, lại có thể đắc Đạo mà gấm ghé cái phảm Thần, Thánh, Tiên, Phật đặng nữa, huống lựa là các đấng ấy phải bị đọa trần mà biết mình hằng giữ thì mầu nhiệm thử Thánh, Tiên, Phật chẳng có nghĩa lý gì hết. Vì vậy mà Thầy hằng nói cùng các con rằng: Một trường thi công quả, các con muốn đến đặng nơi Cực Lạc thì phải đi tại cửa nầy mà thôi. Thầy lại khuyên nhủ các con rằng: Thầy đã đến chung cùng với các con; các con duy có tu mà đắc Đạo; phái đoái lại bá thiên vạn ức nhân
sanh còn phải trầm luân nơi khổ hải, chưa thoát khỏi luân hồi, để lòng từ bi mà độ rỗi.
Nay tuy các con chẳng thấy đặng hành vi mầu nhiệm, mà chính mình Thầy đã đến nói, các con cũng nên tin nơi Thầy mà cho rằng lời dạy Thầy là chơn thật. Nếu các con đợi đến buổi chung qui, hồn ra khỏi xác mới thấy cơ mầu nhiệm đặng, thì chừng ấy đã muộn rồi.
Ý nghĩa Thánh Ngôn như thế nầy:
Đức Chí Tôn lập Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ có thiệt có hư, không dụng hết huyền diệu Thiêng Liêng làm cho nhơn sanh dễ dàng tin Đạo. Như lúc Đạo mới khai, thường nghe nơi nầy có đàn cơ Đức Cao Đài giáng, nơi kia cũng có đàn cơ Đức Cao Đài giáng, xem qua lời lẽ, ý tứ không giống nhau, thành thử nhơn sanh biết đâu là thiệt đâu là giả. Đó là cái khó phân biệt sự chơn thật và sự giả dối Chí Tôn để cho nhơn sanh tự nhận định đâu là giả, đâu là chơn.
Việc chọn lựa Chức Sắc vào hàng Thánh Thể cũng làm cho nhơn sanh ngờ vực, vì lẽ chư Chức Sắc không phải toàn là người trọn lành; có người có đức hạnh vừa đủ, có người dường như có công ít mà tội nhiều. Đó cũng là một cái cớ làm cho nhơn sanh gồm cả các Đấng Thánh, Tiên bị đọa trần, bán tín, bán nghi, mà hễ bán tín, bán nghi thì không để trọn tấc lòng tin Đạo. Âu cũng là Thiên ý, là cơ mầu nhiệm lập Đạo, Chí Tôn sắp đặt để thử Thần, Thánh, Tiên, Phật. Nếu các Đấng ấy tự tín, tự tìm hiểu được cơ mầu nhiệm, thì mau mau lo đường giải thoát, đâu còn phải chịu đọa trầm luân. Hai con đường siêu, đọa, tự chư Thần, Thánh, Tiên, Phật chọn lấy.
Chí Tôn vì đức háo sanh, muốn tận độ nhơn sanh, tất cả đều được gội nhuần ân vũ lộ cũng như cây cỏ gặp sương được tươi thấm. Vì lẽ đó mà Đức Ngài mở rộng cửa, lập trường thi công quả, ai có công nhiều được quả vị cao, ai có tội được đái công chuộc tội. Ai muốn đến đặng nơi Cực Lạc thì phải đi tại cửa nầy mà thôi, nghĩa là muốn đắc Đạo phải có công quả.
Ra sức cứu người khỏi nạn là công quả cứu người.
Dìu dắc người vào cửa Đạo là công quả độ người.
Khiến một người dữ trở nên hiền là công quả dạy người, làm nên cho người, là công quả lớn nhứt, cũng là công quả khó làm nhứt. Chí Tôn có dạy: “Lập một nước còn dễ hơn dạy một người dữ đặng hiền”.
Người tu hành tùy theo công quả mà đắc phẩm vị hơn kém khác nhau.
Những người tu Đại Đạo Tam Kỳ quyết phải có người đắc đạo tại thế, không phải chờ ở kiếp sau. Kỳ khai Đạo nầy là kỳ đặc biệt, là kỳ đại ân xá, như Chí Tôn thường nói.
Đoạn Thánh Giáo: “Nếu các con đợi đến buổi chung qui, hồn ra khỏi xác mới thấy cơ mầu nhiệm đặng thì chừng ấy đã muộn rồi”, chừng ấy đã muộn rồi có nghĩa là người tu phải thấy đặng cơ mầu nhiệm ngay ở kiếp sống, chớ không phải đợi đến buổi chung qui mới thấy. Thấy cơ mầu nhiệm tiện thị là đắc đạo.
Thưa quí vị Chức Sắc, Chức Việc và chư Đạo Hữu nam nữ,
Tôi kêu gọi tất cả quí vị hãy đặc trọn niềm tin tưởng vào Đạo, cố gắng tìm hiểu lẽ nhiệm mầu, học hỏi rõ thông lý Đạo.
Sanh nhầm buổi Đạo khai thật là vạn hạnh, gặp Đạo hoa tàn lại đặng tươi. Nếu không nong nã để ngày tháng trôi qua, tuổi chẳng kéo dài, thì rất uổng một kiếp sanh, tiếc một đời tu không trọn, thuyền đã cập bến mà sang đến bờ bên kia còn hãy ngập ngừng. Rủi thay cho kẻ vô phần.
Tôi cầu nguyện Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu và các Đấng Thiêng Liêng ban ơn lành cho quí vị.
Nay kính,
HIẾN ĐẠO
Trích từ TIẾNG GỌI của Ngài Hiến Đạo Hiệp Thiên Đài, trang 53-55.
Bản in ronéo 1973 do Chức Sắc và Nhân Viên văn phòng Hiến Đạo thực hiện.◙ |
|

 |
Sự Kiện Quan Trọng Năm 1925-1926-1927 |
|
ăm Giáp Tý 1924, nhân dịp có ông Đại Úy Pháp J. Bonnet một hội viên của Hội Thần Linh Học Pháp, là bạn thân của ông Cao Quỳnh Cư đến thăm; khi biết được Đại Úy nầy thông công được với thế giới vô hình. Ba ông Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang yêu cầu Đại Úy J. Bon-net ngồi đồng cốt giúp cho ba ông trao đổi tư tưởng với cõi vô hình.
Đại Úy J. Bonnet vui vẻ nhận lời giúp ba ông.
Nghi thức sắp đặt một cuộc thông công được tổ chức. Đại Úy J. Bonnet ngồi đồng một Đấng Thiêng Liêng giáng:
Quý ông hỏi các Đấng Thiêng Liêng:
Bốn tôn giáo hiện có tại Việt Nam Nho Giáo, Phật Giáo, Lão Giáo và Gia Tô Giáo, vì có những điểm dị đồng nên thường sung khắc nhau. Bốn tôn giáo ấy có thể hòa hợp được với nhau không? Cũng như hai nền văn minh Đông Phương và Tây Phương có thể hòa hợp với nhau chăng?
Các Đấng Thiêng Liêng khuyên:
Tín ngưỡng bắt nguồn từ lương tâm, lương tâm khắc nhau tùy theo trạng thái tinh thần của mỗi con người. Nó không có cá tánh, cũng chẵng bao giờ bị tiêu diệt, bởi vì nó thoát sinh ra ở nơi Thượng Đế. Vậy tự do tín ngưỡng phải được tôn trọng cho tất cả mọi con người, nhưng sự hòa hợp trong tinh thần Chân-Thiện-Mỹ phải là một nhiệm vụ bắt buộc...
Đây là lần đầu ba ông Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang thông công với cõi vô hình.
Thế kỷ hai mươi, phong trào nghiên cứu Thần Linh Học ở Âu Châu tràn sang Việt Nam - Khám phá thế giới vô hình là chủ đề chính của sách báo, tạp chí thời ấy.
Trong giới nghiên cứu Thần Linh Học ở Việt Nam, đủ các hạng người, nhưng ông Cao Quỳnh Cư đã có một lần chứng kiến cuộc thông công với các Đấng vô hình, nên ông say nhứt ước vọng liên lạc bằng mọi cách, luôn luôn chiếm ngự trong tâm trí ông và một số người đồng chí hướng.
Nhân ngày Chúa Nhựt 5 tháng 6 năm Ất Sửu, dl. 25 tháng 6 năm 1925, ông Cao Quỳnh Cư đến thăm ông Cao Hoài Sang gặp ông Phạm Công Tắc cũng đến đó, vì ở chung một dãy phố đường Hàng Dừa gần bên chợ Thái Bình nay là đường Cống Quỳnh Saigon.
Ba ông thường đến với nhau, mượn chung trà, lời thơ, cung đàn, ký gởi nỗi lòng cùng một cái đau quê hương đang quằn quại dưới gót xâm lăng cùng một cái nhục đồng chủng đang rên siếc dưới xiềng nô lệ. Lúc nào cũng canh cánh bên lòng tình thương dân yêu nước. Nhưng than ôi! Thương yêu thì để dạ chớ biết làm sao! Vì tình trạng lúc ấy là lúc nước nhà bị đô hộ, mấy ông bạn ấy là người vì hoàn cảnh bắt buộc phải giúp việc cho Pháp để đổi lấy đồng lương. Tuy bề ngoài thì hiệp tác như vậy, nhưng bên trong thì bao giờ cũng muốn hy vọng giải phóng dân tộc. Nhờ vậy mà ba bạn chí sĩ nói trên mới nghĩ ra chuyện xây bàn để liên lạc với thế giới vô hình cầu thỉnh các vong linh của người quá cố về, làm thi họa vận và học hỏi thăm việc nước.
ĐẠO SỬ Quyển Nhứt - 1975. Lời Tựa Hội Thánh Hiệp Thiên Đài. Trang 8-11
[https://caodaiebook.net/tailieusuutap-pdf/19750313-DaoSu_KhaiDao-HTD(v2021).pdf]

NGÀY 5 THÁNG 6 NĂM ẤT SỬU (DL. 25/07/1925) Quý ông Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc và Cao Hoài Sang tổ chức xây bàn thông công với vô hình. Đây là những thí nghiệm lúc đầu tại nhà ông Sang.
NGÀY 6 THÁNG 6 NĂM ẤT SỬU (DL. 26/07/1925) Quý ông Cư, Tắc, Sang thí nghiệm lại việc xây bàn. Kết quả, cháu của ông Cư là Ô. Cao Quỳnh Lượng và thân sinh của Ông là cụ Cao Quỳnh Tuân giáng. [THÔNG TIN - Xuân Quý Sửu 1973 trang 33 – 40. Do Cơ Quan Phát Thanh Phổ Thông Giáo Lý - Tòa Thánh Tây Ninh ấn hành 02-1973.]
Chơn linh Cao Quỳnh Lượng và Chơn linh Ngài Cao Quỳnh Tuân nhập bàn.
Ly trần tuổi đã quá năm mươi,
Mi mới vừa lên ước đặng mười.
Tổng mến lời khuyên bền mộ chép,
Tình thương căn dặn gắng tâm đời.
Bên màn đôi lúc trêu hồn phách,
Cõi thọ nhiều phen đặng thảnh thơi.
Xót nỗi vợ hiền còn lụm cụm,
Gặp nhau nhắn nhủ một đôi lời.
Ký tên: Cao Quỳnh Tuân |
[ÐẠO SỬ XÂY BÀN Năm Ất Sửu (1925) quyển I. Soạn giả Nữ Đầu Sư Hương Hiếu.] |
NGÀY 10 THÁNG 6 NĂM ẤT SỬU (DL. 30/07/1925) Quý Ông hội lại và tiếp tục xây bàn. Có một vị về xưng tên là ĐOÀN NGỌC QUẾ, cho thi rất hay.
Nỗi mình tâm sự tỏ cùng ai?
Mạng bạc còn xuân uổng sắc tài.
Những ngỡ trao duyên vào ngọc các,
Nào dè phủi nợ xuống tuyền đài.
Dưỡng sinh cam lỗi tình sông núi,
Tơ tóc thôi rồi nghĩa trúc mai.
Dồn dập tương tư oằn một gánh, |
[ÐẠO SỬ XÂY BÀN Năm Ất Sửu (1925) quyển I. Soạn giả Nữ Đầu Sư Hương Hiếu.] |
Cô Vương Thị Lễ, tá danh Đoàn Ngọc Quế. Cô là Thất Nương Diêu Trì Cung.
Diêu Trì Cung dụng thi văn khởi đầu lòng tin để dìu ba Ông vào đường Đạo, vì thế trong bài kinh Tán Tụng Công Đức Diêu Trì Kim Mẫu có câu: "Thất-Nương khêu đuốc Đạo đầu, Nhờ Người gợi ánh nhiệm-mầu huyền-vi….".
ĐÊM 10-7-ẤT SỬU (DL.28-8-1925) Đấng A Ă Â giáng bàn cho 4 câu thi rất lạ.
Ớt cay cay ớt gẫm mà cay,
Muối mặn ba năm muối mặn dai.
Túng lúi đi chơi nên tấp lại,
Ăn bòn chẳng chịu tấp theo ai. |
[ÐẠO SỬ XÂY BÀN Năm Ất Sửu (1925) quyển I. Soạn giả Nữ Đầu Sư Hương Hiếu.] |
Đức Chí Tôn tá danh A.Ă.Â. đến với các Ông lần đầu tiên ngày 10-7-Ất Sửu (dl. 28-8-1925), đến ngày 10-11-Ất Sửu (dl. 25-12-1925) Đấng A Ă Â xưng danh là Cao Đài Thượng Đế. (1)Ghi Chú.
RẰM THÁNG 8 NĂM ẤT SỬU (DL. 02/10/1925) Thiết lễ Hội Yến Diêu Trì lần đầu tiên tại nhà ông Cao Quỳnh Cư, số 134 đường Bourdais Saigon. Có Đấng A.Ă.Â., DIÊU TRÌ NƯƠNG NƯƠNG và CỬU VỊ TIÊN NƯƠNG giáng. Mỗi vị cho một bài thi, riêng Cửu Nương hai bài. Sau hết, Lục Nương mời ba Ông làm thi liên ngâm, mỗi người hai câu. Cứ thế làm tất cả được hai bài thi rất hay. [THÔNG TIN - Xuân Quý Sửu 1973 trang 33 – 40. Do Cơ Quan Phát Thanh Phổ Thông Giáo Lý - Tòa Thánh Tây Ninh ấn hành 02-1973.]
Im lìm cây cỏ vẫn in màu,
Mờ mệt vườn xuân điểm sắc thu.
Gió dậy xao trời mây cuốn ngọc,
Sương lồng ướt đất liễu đeo châu.
Ngựa vàng ruổi gió thoi đưa sáng,
Thỏ ngọc trau gương đậm vẻ làu.
Non nước đìu hiu xuân vắng chúa,
Nhìn quê cảnh úa giục cơn sầu.
Lục Nương. |
LỤC NƯƠNG làm thi hai câu, còn sáu câu nhượng cho ba ông làm:
Lục Nương |
Trót đã đa mang cái nợ đời,
Gánh đời nặng lắm khách đời ơi! |
Cao Quỳnh Cư: |
Oằn vai Thần đạo non sông vác,
Chịu kiếp trần ai gió bụi vùi. |
Phạm Công Tắc: |
Thương hải tang điền xem lắm lúc,
Công danh phú quý nhắm trò chơi. |
Cao Hoài Sang: |
Ở đời mới hẳn rằng đời khó,
Khó một đôi năm dễ khó đời. |
|
|
Lục Nương |
Ở thế sao chê tiếng thế buồn,
Buồn vui hai lẽ lấy chi đong. |
Cao Quỳnh Cư: |
Cân đai tuế nguyệt trêu hồn bướm,
Tên tuổi phong ba lắm bụi hồng. |
Phạm Công Tắc: |
Chiếc bách dập dồn dòng Bích Thủy,
Phồn hoa mờ mệt giấc Huỳnh Lương. |
Cao Hoài Sang: |
Bờ dương chừ đặng phong trần rảnh,
Quảy gánh thơ đàn dạo bốn phương. |
[ÐẠO SỬ XÂY BÀN Năm Ất Sửu (1925) quyển I. Soạn giả Nữ Đầu Sư Hương Hiếu.] |
MÙNG 1 THÁNG 11 NĂM ẤT SỬU (DL. 16/12/1925) Vọng Thiên Cầu Ðạo.
Ngày 30 tháng 10 năm Ất Sửu (15-12-1925) ông A.Ă. giáng dạy rằng: - Ngày mùng 1 tháng 11 nầy (16-12-1925), tam vị phải Vọng Thiên Cầu Ðạo. Tắm gội cho tinh khiết ra quỳ giữa Trời cầm chín cây nhang mà vái rằng:
Ba tôi là: Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang.
Vọng bái Cao Ðài Thượng Ðế, ban ơn đủ phúc lành cho ba tôi cải tà qui chánh.
Sớm mai ngày mùng Một, ông Cao Quỳnh Cư đi mượn Ðại Ngọc Cơ của ông Tý ở ngang nhà (cũng ở đường Bourdais).
Nhớ lời ông A.Ă. dạy, ba ông quỳ ngoài sân sắp đặt có một cái bàn nhỏ, quỳ chống tay trên bàn, cầm 9 cây nhang vái:
Ba tôi là: Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang. Vọng bái Cao Ðài Thượng Ðế, ban ơn đủ phúc lành cho ba tôi cải tà qui chánh.
Ba ông cứ tịnh tâm mặc niệm vái như lời ông A.Ă. dạy, không nhớ tới cái vụ quỳ ngoài đường có kẻ qua người lại dập dìu, lớp thì xe cộ họ đi chơi, đi coi hát về, họ dừng chân lại coi ba ông nầy cúng vái ai mà quỳ ngoài sân cỏ như vậy.
Ai coi mặc ai ba ông cứ quỳ đó cầu khẩn van vái cho tàn hết 9 cây nhang, bổng đâu có anh Bồng Dinh đến vịn cái bàn chỗ ba ông đương quỳ mà ngâm thi, thiên hạ đi đường nghe ảnh ngâm nên xúm lại coi. Cúng cầu khẩn xong rồi, vô nhà kế tới giờ Vọng Thiên Cầu Ðạo (cũng đêm 16-12-1925).
Ðức Cao Ðài giáng viết chữ Nho; ba ông không hiểu chữ Nho, nên khi Ðức Cao Ðài thăng rồi thì ba ông thỉnh cái bàn ra mời ông A.Ă. Ðại Tiên xin giảng nghĩa bài thi tứ cú của ông Cao Ðài trên đây.
Ông A.Ă. nói: - Cao Ðài Thượng Ðế ý nói nhị ... phải nghĩ cho thấu, ông A.Ă. cho bài thi cũng trong giờ nầy:
Cứ níu theo phan Ðức Thượng Hoàng,
Tự nhiên tu tánh đặng bình an.
Nguyệt hoa căn tội tua xa lánh,
Vịn lấy nhành dương hưởng Ðạo nhàn. |
[ÐẠO SỬ XÂY BÀN Năm Ất Sửu (1925) quyển I. Soạn giả Nữ Đầu Sư Hương Hiếu.]
NGÀY 4 THÁNG 11 NĂM ẤT SỬU (DL.19-12-1925) Thượng Đế chấp nhận lời Vọng Thiên Cầu Đạo của 3 ông.
Đấng A Ă Â giáng cho 4 câu thi :
Mừng thay gặp gỡ Ðạo Cao Ðài,
Bởi đức ngày xưa có buổi nay.
Rộng mở cửa răn năng cứu chuộc,
Gìn lòng tu tánh chớ đơn sai.
(19-12-1925) |
[Đạo Sử Nhật Ký do Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng biên soạn 2004.] |
NGÀY 22 THÁNG 11 NĂM ẤT SỬU (DL. 06/01/1926) Quý ông Cư và Tắc đắc lịnh Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế đem Đại Ngọc Cơ đến Vĩnh Nguyên Tự thuộc đạo Minh Sư để thiết đàn cơ. Tại đây, Đức Thượng Đế đã giáng dạy đạo cho ông Lê Văn Lịch. Ông nầy là con trai của cụ Lê Văn Tiểng, Trưởng Lão Minh Sư, đã đắc đạo và thọ phong Như Ý Đạo Thoàn Chơn Nhơn. Khi còn ở thế cụ đã có di chúc tiên tri rằng: “Ngôi Vĩnh Nguyên Tự sau nầy sẽ có Thập Nhị Khai Thiên đến mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ”. [THÔNG TIN - Xuân Quý Sửu 1973 trang 33 – 40. Do Cơ Quan Phát Thanh Phổ Thông Giáo Lý - Tòa Thánh Tây Ninh ấn hành 02-1973.]
NGÀY 23 THÁNG 11 NĂM ẤT SỬU (DL. 07/01/1926) Đức Cao Đài Tiên Ông dạy quý ông Cư, Tắc, Sang đem Đại Ngọc Cơ đến nhà ông Lê Văn Trung ở Chợ Lớn cho Ngài dạy việc. Quý Ông ngần ngại nhưng không dám cãi lịnh. Khi đến nhà ông Trung, quý Ông trình bày tự sự. Ông Trung vui vẻ chấp thuận và cùng nhau thiết lập đàn cơ. Trong lúc chuẩn bị cầu cơ, nhiều phép lạ đã hiện ra. Trong đàn cơ nầy, Đức Thượng Đế dạy ông Trung phải hiệp cùng hai ông Cư, Tắc lo việc mở Đạo. (2)Khảo Dị.
NGÀY 27 THÁNG 11 NĂM ẤT SỬU (DL. 11/01/1926) Ông Lê Văn Trung đến viếng xã giao ba ông Cư, Tắc, Sang. Bốn Ông hiệp lại cầu cơ. Đức Thượng Đế giáng dạy ông Trung nhiều việc. [THÔNG TIN - Xuân Quý Sửu 1973 trang 33 – 40. Do Cơ Quan Phát Thanh Phổ Thông Giáo Lý - Tòa Thánh Tây Ninh ấn hành 02-1973.]
THẦY
(Le 11 Janvier 1926 là ngày ông Lê Văn Trung đến nhà Cao Quỳnh Cư hầu Ðức Chí Tôn để nhập môn cầu Ðạo ở Sài Gòn).
Già trí đừng lo trí chẳng già,
Lương tâm mình biết hỏi chi xa.
Thềm đầu Trời ngó lòng Nhơn Ðạo,
Hư thiệt rồi đây cũng biết mà.
11-1-1926. |
[ÐẠO SỬ XÂY BÀN Năm Ất Sửu (1925) quyển I. Soạn giả Nữ Đầu Sư Hương Hiếu.] |
Nói thêm về Ngài Lê Văn Trung:
15 (RẰM) THÁNG 6 NĂM ẤT SỬU (DL. 04/08/1925) Ông LÊ VĂN TRUNG được ông Nguyễn Hữu Đắc rủ đến nhà ông Lê Thành Vạn tại Chợ Gạo Phú Lâm xem cầu cơ. Nhờ các đàn cơ nầy mà ông Lê Văn Trung lần lần hiểu đạo và tự thông công được với các Đấng Vô hình. Sau mới gặp ba ông Cư, Tắc và Sang. [THÔNG TIN - Xuân Quý Sửu 1973 trang 33 – 40. Do Cơ Quan Phát Thanh Phổ Thông Giáo Lý - Tòa Thánh Tây Ninh ấn hành 02-1973.]
NGÀY 14 THÁNG CHẠP NĂM ẤT SỬU (DL. 27/01/1926) Quý Ông bạch hỏi Đức Thượng Đế và cách thờ phượng. Đức Thượng Đế dạy đến gặp ông Ngô Văn Chiêu để xem cách thức. Vì ông Chiêu là người được Đức Thượng Đế dạy Đạo từ lâu, nên quý Ông Trung, Cư, Tắc và Sang đồng tôn ông Chiêu làm anh cả. [THÔNG TIN - Xuân Quý Sửu 1973 trang 33 – 40. Do Cơ Quan Phát Thanh Phổ Thông Giáo Lý - Tòa Thánh Tây Ninh ấn hành 02-1973.]
Khi quí Ngài : Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang và Lê Văn Trung lên nhà Ngài Ngô Văn Chiêu thì được Ngài Chiêu đón tiếp niềm nở.
Ngài Chiêu hướng dẫn quí vị mới đến vẽ Thiên Nhãn để thờ Đức Chí Tôn và cách sắp đặt trên bàn thờ. Sau đó Ngài Ngô Văn Chiêu đưa cho quí ông các bài Kinh để tụng khi cúng Thầy trước Thiên Bàn :
• Kinh Ngọc Hoàng Thượng Đế (Đại La Thiên Đế).
• Bài Dâng Hoa (Hoa tươi năm sắc, sắc thiên nhiên)
• Bài Dâng Rượu trắng (Tửu vị hương hề tửu vị hương).
• Bài Dâng Trà (Đông độ thanh trà mỹ vị hương).
• Bài Dâng Rượu lễ (Bồ đào cam giá tửu Tây phương).
• Bài Cửu Thiên (Cửu Thiên đại lang) hay Thông Minh Chú, bài nầy đọc trước khi cầu cơ.
• Bài Kinh Cầu Tiên (Trời còn sông biển đều còn), cũng gọi là Bài Trời Còn, đọc nối theo bài Cửu Thiên.
• Bài Thúc cơ (Mừng thay chi xiết nỗi mừng), cũng gọi là Bài Mừng thay, đọc khi cơ chuyển có Tiên giáng.
[Đạo Sử Nhật Ký do Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng biên soạn 2004.]
Nói thêm về Ngài Ngô Văn Chiêu:
Trước khi Đức Chí Tôn đến độ 3 Ngài : Phạm Công Tắc, Cao Quỳnh Cư, Cao Hoài Sang dưới danh xưng là A Ă Â, Đức Chí Tôn đã độ Ngài Ngô Văn Chiêu từ năm 1921, trong lúc Ngài Chiêu đang làm Chủ Quận Phú Quốc.
Ngài Chiêu gọi Đức Chí Tôn là Tiên Ông, dạy Ngài Ngô Văn Chiêu vẽ Thiên Nhãn y như đã thấy để thờ và gọi Tiên Ông là Thầy.
Cho đến ngày 20-1-1926, Ngài Ngô Văn Chiêu mới được lịnh của Đức Chí Tôn hiệp với 4 Ngài : Lê Văn Trung, Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc và Cao Hoài Sang lo việc mở Đạo. [Trích lược từ Đạo Sử Nhật Ký do Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng biên soạn 2004.]
NGÀY 14 THÁNG CHẠP NĂM ẤT SỬU (DL. 27/01/1926) Khai đàn nơi nhà Ngài Cao Quỳnh Cư.
THẦY
Ðã để vào tòa một sắc hoa,
Từ đây đàn nội tỷ như nhà.
Trung thành một dạ thờ Cao sắc,
Sống có Ta thác cũng có Ta.
Ðài sen vui nhánh trổ thêm hoa,
Một Ðạo như con ở một nhà.
Hiếu nghĩa tương lai sau tụ hội,
Chủ trung Từ Phụ vốn là Ta. |
[ÐẠO SỬ XÂY BÀN Năm Ất Sửu (1925) quyển I. Soạn giả Nữ Đầu Sư Hương Hiếu.] |
NGÀY 16 THÁNG CHẠP NĂM ẤT SỬU (DL 29-01-1926) Ông Vương Quan Kỳ hướng dẫn quí Ngài Trung, Cư, Tắc, Sang đến viếng và nhân dịp thỉnh Kinh của chi Minh Lý.
Những bài Kinh của Minh Lý Thánh Hội, được Ngài Âu Minh Chánh Chủ trưởng của Minh Lý trao cho :
• Kinh Niệm Hương.
• Bốn bài Chú : Tịnh Khẩu Chú, Tịnh Tâm Chú, Tịnh Thân Chú, An Thổ Địa Chú.
• Bài Khai Kinh.
• Kinh Sám Hối, cũng gọi là Kinh Nhơn Quả.
• Bài Khen Ngợi Kinh Sám Hối.
• Kinh Cầu Siêu (Sám Cầu Siêu).
• Bài Xưng Tụng Công Đức Thần Thánh Tiên Phật.
[Đạo Sử Nhật Ký do Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng biên soạn 2004.]
Thầy vui vì các con thuận hòa cùng nhau. Thầy muốn cho các con như vậy hoài, ấy là một lễ hiến cho Thầy rất trân trọng. Trung! Thầy khen con đó.
29-1-1926
Cư, Sang, Tắc muốn theo anh con vào xem Hội Minh Lý.
Kỳ (1) có con Thầy mới cho ba đứa nó đi ... con, con chỉ những sự bái quị của Thầy buộc thế nào và cắt nghĩa cho nó hiểu.
-------------
(1) Anh Phủ Kỳ: Những sự bái quị bên Minh Lý lạy đủ 12 lạy, còn bên Tam Kỳ Thầy cho mỗi lạy 4 gật, thì 3 lần đủ 12 lạy. |
[ÐẠO SỬ XÂY BÀN Năm Ất Sửu (1925) quyển I. Soạn giả Nữ Đầu Sư Hương Hiếu.] |
NGÀY 18 THÁNG CHẠP NĂM ẤT SỬU (DL 31-01-1926)
Khai đàn nơi nhà Ngài Lê Văn Trung.
THẦY
Thầy vui mừng các con.
Trung, con thờ Thầy trên hết là phải, con đem tượng Quan Trường qua bên tay trái Thầy, còn Quan Âm bên mặt. Con thờ Lý Thái Bạch dưới Thầy. Ðại Từ Phụ con hiểu lòng thương là bực nào? ... ... ...
THẦY
Một Trời một Ðất một nhà riêng,
Dạy dỗ nhơn sanh đặng dạ hiền.
Cầm mối Thiên Thơ lo cứu chúng,
Ðạo người vẹn vẻ mới thành Tiên.
31-1-1926. |
[ÐẠO SỬ XÂY BÀN Năm Ất Sửu (1925) quyển I. Soạn giả Nữ Đầu Sư Hương Hiếu.] |
Khai đàn nơi nhà Ngài Vương Quan Kỳ.
THẦY
Cao mấy từng mây lố mặt Trời,
Ðài sen vui nở nhánh bông tươi.
Ðạo mầu cậy gã truyền nhơn sự,
Dạy trẻ cho an lấy Ðạo Ðời.
31-1-1926. |
[ÐẠO SỬ XÂY BÀN Năm Ất Sửu (1925) quyển I. Soạn giả Nữ Đầu Sư Hương Hiếu.] |

NGÀY 1-1-BÍNH DẦN (DL. 13-2-1926) TẾT Bính Dần.
Thầy dạy các môn đệ khởi đi truyền Đạo.
Ông Lê Văn Trung thiết lễ cúng Thầy tại nhà của ông đúng giờ Giao thừa, tức 12 giờ khuya hay là 0 giờ ngày mùng 1 tháng giêng năm Bính Dần. Tất cả mọi người cúng Thầy xong thì thiết đàn cầu Thầy. Đức Chí Tôn giáng ban lời Thánh giáo rất quan trọng vào giờ Tý, đầu năm Bính Dần : "Các môn đệ khởi sự đi truyền Đạo phổ độ nhơn sanh." [Đạo Sử Nhật Ký do Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng biên soạn 2004.]
NGÀY 9-1-BÍNH DẦN (DL. 21-2-1926)
Qua đến ngày mùng 9 tháng Giêng (21-2-1926), nhằm ngày Vía Ðức Ngọc Hoàng Thượng Ðế, Quan Phủ Vương Quang Kỳ có thiết Ðàn riêng tại nhà ông số 80 đường Lagrandière (bây giờ là đường Gia Long). … … …
Khi ấy, Quan Phủ Ngô Văn Chiêu xin Thượng Ðế lấy tên mấy người đệ tử mà cho một bài thi kỷ niệm.
Chiêu Kỳ Trung độ dẫn Hoài sanh,
Bản đạo khai Sang Quí Giảng thành.
Hậu, Ðức, Tắc, Cư thiên địa cảnh,
Hườn Minh Mân đáo thủ đài danh. |
Thượng Ðế lại phán: "Hườn, Minh, Mân sau sẽ rõ..."
[ÐẠO SỬ XÂY BÀN Năm Ất Sửu (1925) quyển I. Soạn giả Nữ Đầu Sư Hương Hiếu.]
NGÀY 13-3-BÍNH DẦN (DL. 24-4-1926) Ngài Ngô Văn Chiêu tách riêng.
Trong hơn 3 tháng hợp tác, đến ngày 13-3-Bính Dần (dl. 24-4-1926) Ngài Ngô Văn Chiêu từ chối không còn hợp tác với quý vị chức sắc Đại Thiên Phong đầu tiên cùng nhau đi phổ độ chúng sanh theo lời Chí Tôn đã dạy.
24 Avril 1926
Tái Cầu
Các con coi thử đó thì đã hiểu rằng Thầy thương yêu nhơn loại là dường nào. Cái vui của Thầy là đặng thấy các con hội hiệp cùng nhau, thương yêu nhau trong đạo đức của Thầy, ai còn dám làm cho chia lìa các con là đứa thù nghịch cùng Thầy.
Chiêu đã hữu căn hữu kiếp; Thầy đã dùng huyền diệu mà thâu phục độ rỗi nó trước các con, biết bao phen Thầy gom các Môn Ðệ lại, Thầy sở cậy nó ấp yêu dùm cho Thầy dường như gà mẹ ấp con, song nó chẳng vâng mạng lịnh Thầy, lại đành lòng cắn mổ xô đuổi dường ấy, thì làm sao cho xứng đáng cái trách nhậm rất lớn của Thầy toan phú thác cho nó. Các con đừng trông mong rỗi cho nó, nghe và tuân mạng lịnh Thầy… … … |
[ÐẠO SỬ XÂY BÀN Năm Ất Sửu (1925) quyển I. Soạn giả Nữ Đầu Sư Hương Hiếu.]
Xem thêm ĐẠO SỬ Quyển Nhứt Lời Tựa Hội Thánh Hiệp Thiên Đài trang 12, 13, 14 [https://caodaiebook.net/tailieusuutap-pdf/19750313-DaoSu_KhaiDao-HTD(v2021).pdf] |
ĐÊM 14-3-BÍNH DẦN (DL. 25-4-1926)
Thầy trục chơn thần Phạm Công Tắc để hiệp nhứt với chơn thần Vi Hộ Pháp trong lễ Thiên phong lần đầu tiên tại nhà Ngài Trung.
Ðức Chí Tôn sắp đặt ngày Thiên Phong.
22 et 23-4-1926 (11 và 12-3-Bính Dần)
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ VIẾT CAO ÐÀI
GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG
Ba con nghe dạy cuộc sắp Thiên Phong.
Các con vui không?
Ðạo phát trễ một ngày là một ngày hại nhơn sanh. THẦY nôn nóng nhưng mà Thiên Cơ chẳng nghịch đặng, nên phổ thông trắc trở, vậy thì ba con (Trung, Cư, Tắc) cứ sắp đặt thế nầy: ... ... ... |
[Xem thêm THÁNH NGÔN HIÊP TUYỂN (Bổn Thứ Nhứt Ấn bản năm Đinh Mão 1928)
trang 15, 16,17.] |
Đức Chí Tôn phong Thánh lần đầu tiên.
Ðêm 25 rạng mặt 26 Avril 1926.
14 rạng mặt rằm tháng ba, năm Bính Dần
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ VIẾT CAO ÐÀI
TIÊN ÔNG, ÐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT
GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG
Kim triêu dĩ đáo Thiên Trung Quang,
Ám hiểu thế tình tánh đức nan.
Chỉ đãi thời lai quang minh tụ,
Tả ban thiểu đức, Hữu ban mang.
… … …. |
[Xem thêm THÁNH NGÔN HIÊP TUYỂN (Bổn Thứ Nhứt Ấn bản năm Đinh Mão 1928)
trang 18.] |
NGÀY 1-7-BÍNH DẦN (DL. 8-8-1926): tại Vĩnh Nguyên Tự Cần Giuộc. Thầy lập Tịch Đạo Cửu Trùng Đài nam phái và phong Thánh lần thứ 2.
Các con nghe Tịch Ðạo, Thi:
THANH Ðạo tam khai thất ức niên,
Thọ như địa huyển thạnh hòa Thiên.
Vô hư qui phục nhơn sanh khí,
Tạo vạn cổ đàn chiếu Phật duyên.
THANH là Tịch các con…. … …. |
[Xem thêm THÁNH NGÔN HIÊP TUYỂN (Bổn Thứ Nhứt Ấn bản năm Đinh Mão 1928)
trang 32.] |
CÁC ĐÀN CƠ PHỔ ĐỘ ĐẦU TIÊN
Sau ngày Ngài Ngô Văn Chiêu tách riêng ra, Đấng Thượng Đế thâu phục được nhiều vị trí thức và danh giá như : Đốc Phủ Lê Bá Trang, Đốc Phủ Nguyễn Ngọc Tương, Đốc Phủ Lê Văn Hóa, Đốc Phủ Mạc Văn Nghĩa, hai vợ chồng ông Huyện Nguyễn Ngọc Thơ, ông Lê Văn Lịch, Đại Lão Sư Nguyễn Văn Tương, ông Nguyễn Văn Kinh, Thái Lão Sư Trần Đạo Quang, ông Lâm Quang Bính, cả thảy đều là những trang rường cột trong nền Đại Đạo.
Chư vị phò loan, ngoài 5 ông : Cư, Tắc, Sang, Hậu, Đức, lại thêm được mấy ông : Cao Quỳnh Diêu, Ca Minh Chương, Phạm Văn Tươi, Phạm Tấn Đãi, Nguyễn Văn Kim, Trần Duy Nghĩa, Trương Văn Tràng, Huỳnh Văn Mai, Võ Văn Nguyên.
Các đàn cơ phồ độ đầu tiên: 1. Đàn Cầu Kho, 2. Đàn Chợ Lớn, 3. Đàn Tân Kim (Cần Giuộc), 4. Đàn Lộc Giang, 5. Đàn Tân Định, 6. Đàn Thủ Đức, * Đàn Trị bịnh * Đàn Hội Phước Tự * Đàn Long Thành Tự * Đàn Giồng Ông Tố.
[Trích lược từ Đạo Sử Nhật Ký do Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng biên soạn 2004.]
[Xem thêm ĐẠI ĐẠO CĂN NGUYÊN - Soạn giả: Nguyễn Trung Hậu, Ấn bản 1930 trang 40-43.]
LẬP TỜ KHAI ĐẠO
Lập Tờ Khai Đạo tại nhà ông Nguyễn Văn Tường đêm 23-8-Bính Dần (dl 29-9-1926).
Ngài Lê Văn Trung vâng lịnh Thầy, triệu tập một Đại Hội các tín đồ ở vùng Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định họp Đại hội tại nhà ông Nguyễn Văn Tường, ở hẻm số 237 bis đường Galliéni, nay là đường Trần Hưng Đạo, Quận 1 Sài Gòn, để lấy danh sách các tín đồ đầu tiên của Đạo Cao Đài làm hồ sơ lập Tờ Khai Đạo, công khai với chánh quyền Pháp tại Nam Kỳ.
Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt vâng lịnh Thầy, chờ đến thứ năm tuần sau, ngày 1-9-Bính Dần (dl 7-10-1926), đích thân Ngài đi lên dinh Thống Đốc Nam Kỳ nạp Tờ Khai Đạo cho ông Le Fol, được ông Le Fol tiếp nhận lịch sự và vui vẻ.
[Trích lược từ Đạo Sử Nhật Ký do Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng biên soạn 2004.]
Ngày 23 tháng tám năm Bính Dần (29-9-1926) ông cựu Thượng nghị viên Lê Văn Trung vâng Thánh ý hiệp với chư Ðạo hữu hết thảy là 247 người, tại nhà ông Nguyễn Văn Tường đứng tên vào Tịch Ðạo để khai Ðạo với Chánh Phủ.
Tờ Khai Ðạo đến mùng một tháng chín (7-10-1926) mới gởi lên Chánh Phủ cho Quan Nguyên Soái Nam Kỳ là ông Le Fol. Trong tờ ấy có 28 người ký tên thay mặt cho cả chư Ðạo hữu có tên trong Tịch Ðạo.
Tờ khai Ðạo ấy, làm bằng chữ Langsa, phiên dịch ra như sau nầy:
SAIGON, le 7 Octobre 1926.
Kính cùng Quan Thống Ðốc Nam Kỳ, Saigon.
Chúng tôi đồng ký tên dưới đây, kính cho Quan lớn rõ:
... ... .... |
[ĐẠI ĐẠO CĂN NGUYÊN - Soạn giả: Nguyễn Trung Hậu, Ấn bản 1930 trang 44.] |
PHỔ ĐỘ LỤC TỈNH
Khai Đạo xong rồi, quí Ngài Lê Văn Trung, Lê Văn Lịch, Nguyễn Ngọc Thơ, Nguyễn Ngọc Tương,… ra mặt công khai truyền Đạo, mở rộng việc phổ độ ở Lục Tỉnh: Vĩnh Long, Trà Vinh, Cần Thơ, ... Chợ Lớn, Gò Công, Tân An,... Tây Ninh, Thủ Dầu Một, Gia Định,...
Đến ngày 10-10-Bính Dần, công việc phổ độ các tỉnh phải tạm ngưng để các Chức sắc tập trung về Thánh Thất Gò Kén lo sắp đặt Đại Lễ Khai Đạo.
Đức Chí Tôn quyết định sẽ làm Đại Lễ Khai Đạo vào ngày Rằm Hạ Nguơn năm Bính Dần, và sẽ sử dụng Từ Lâm Tự ở Gò Kén Tây Ninh, do Hòa Thượng Như Nhãn mới hiến cho Đạo Cao Đài, làm Thánh Thất tổ chức Đại Lễ Khai Đạo.
[Trích lược từ Đạo Sử Nhật Ký do Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng biên soạn 2004.]
NGÀY 28-8-BÍNH DẦN (DL. 4-10-1926) Thầy qui định số lượng Chức sắc nam phái Cửu Trùng Đài.
Lundi 4 Octobre 1926 (27 tháng 8 Bính Dần)
THẦY
Chúng Nam nghe:
THẦY Khổng Tử trước có tam thiên đồ đệ truyền lại còn thất thập nhị Hiền.
THẦY Lão Tử trước đặng một trò là Nguơn Thỉ.
THẦY Giê-Giu trước đặng mười hai người, chừng bị bắt còn lại là Pierre mà thôi.
THẦY Thích Già đặng bốn người; ba người bỏ THẦY còn lại một. Còn nay THẦY giáng thế chọn đến:
Nhứt Phật,
Tam Tiên,
Tam thập lục Thánh,
Thất thập nhị Hiền,
Tam thiên Ðồ Ðệ.
Các con coi đó mà hiểu rằng: Các con có sự mà thiên hạ từ tạo thế đến chừ, chưa hề có chăng? ... ... .... |
[Xem thêm THÁNH NGÔN HIÊP TUYỂN (Bổn Thứ Nhứt Ấn bản năm Đinh Mão 1928)
trang 40, 41.] |
NGÀY 23-8-BÍNH DẦN (DL. 29-10-1926) Thầy giao Đức Lý Thái Bạch kiêm nhiệm Giáo Tông Đại Đạo.
Ðại Ðàn (Chợ Lớn) 29 Octobre 1926
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ VIẾT CAO ÐÀI
GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG
Hỉ chư Môn Đệ, chư nhu, chư ái nữ.
Các con nghe: THẦY buộc phải nói rõ cho các con đừng lầm mà trách THẦY. Cha hiền chả biết hành hạ con cái bao giờ. THẦY đã đến mà dìu dắt từ đứa, thì lẽ nào lại đành lòng xô đuổi.
... ... ...
Vậy từ đây, quyền thưởng phạt đã giao vào tay Lý Thái Bạch. Các con liệu mình mà cầu rỗi nơi Người.
THẦY dạy dỗ các con không nghe, đợi có hình phạt thì các con chịu lấy... ... ... … … …
TÁI CẦU
LÝ THÁI BẠCH
Hỉ chư đạo hữu. Thiên phong bình thân.
Từ đây THẦY đã giao quyền thưởng phạt về nơi tay Bần Ðạo; vậy các Đạo Hữu khá hết lòng lo lắng, vun đắp nền Đạo cho vững vàng, hiệp ý với Thiên Cơ mà bước lần lên địa vị cao thượng; chớ sụt sè ôm thói mờ hồ, thì đã uổng công trình cực nhọc từ bấy lâu nay,... ... .... |
[Xem thêm THÁNH NGÔN HIÊP TUYỂN (Bổn Thứ Nhứt Ấn bản năm Đinh Mão 1928)
trang 44, 45, 46.] |
ĐẠI LỄ KHAI ĐẠO
Le 30 Octobre 1926 (24-09-Bính Dần)
THẦY
Các con! Thầy đã lập Thánh Thất, nơi ấy là nhà chung của các con, biết à!
Thầy lại qui Tam Giáo, lập Tân Luật trong Rằm tháng 10 có Ðại Hội cả Tam Giáo nơi Thánh Thất, các con hay à!
Sự tế tự chế sửa theo Tam Kỳ Phổ Ðộ cũng nơi ấy mà xuất hiện ra, rõ à!
Thầy nhập ba Chi lại một nhà, Thầy là Cha Chưởng Quản, hiểu à!
Thầy phải buộc các con hiệp chung trí mà lo vào đó, nghe à!
Từ đây các con sẽ cực nhọc hơn, vì Thầy phân phát phận sự cho mỗi đứa, vì chẳng vậy các con sanh nạnh nhau, giống tựa hồ chia phe phân phái, là điều đại tội trước mặt Thầy vậy, nghe à!
Các con phải ngưng việc mà chung lo trong Ðại Hội (là Rằm tháng 10 Bính Dần, Khai Ðạo tại Chùa Gò Kén, Tây Ninh). |
[ÐẠO SỬ Quyển II Từ năm Ất Sửu (1925) đến năm Kỷ Tỵ (1929). Soạn giả Nữ Đầu Sư Hương Hiếu.] |
Theo chương trình qui định, Đại Lễ Khai Đạo được tổ chức tại Thánh Thất Gò Kén Tây Ninh trong 3 ngày 3 đêm : 14, 15, 16 tháng 10 năm Bính Dần, tương ứng với ba ngày dương lịch: Thứ năm, Thứ sáu, Thứ bảy 18, 19, 20 tháng 11 năm 1926.
NGÀY 14-10-BÍNH DẦN (DL. 18-11-1926) Ngày đầu của Đại Lễ Khai Đạo tại Thánh Thất Gò Kén.
Ðêm 14 rạng mặt rằm tháng mười năm Bính Dần (18 Novembre 1926) là đêm khánh thành Thánh Thất ở "Từ Lâm Tự".
Ông Lê Văn Trung thay mặt cho bổn đạo mời đủ các chức sắc viên quan Langsa và Annam đến dự lễ ấy. Chư bổn đạo và chư thiện nam, tín nữ hiện diện kể đến hằng muôn. Hội Thánh tiếp đãi khách một cách rất ân cần trọng hậu; ngoài cúng phẩm ra, thì không thâu tiền bạc của ai cả. [ĐẠI ĐẠO CĂN NGUYÊN - Soạn giả: Nguyễn Trung Hậu, Ấn bản 1930 trang 52.]
Đức Chí Tôn giáng để lời chào mừng các môn đệ và Thầy ban Tịch đạo nữ phái và Thiên phong Chức sắc nữ phái:
Khai Ðạo tại Chùa Gò Kén (Từ Lâm Tự ) Tây Ninh.
Jeudi le 18 Novembre 1926 (14-10-Bính Dần)
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG
Hỉ chư Môn Ðệ, chư Ái Nữ,
Nữ phái nghe Thầy khai Tịch Ðạo:
Hương tâm nhứt phiến cận Càn Khôn,
Huệ đức tu chơn độ dẫn hồn.
Nhứt niệm Quan Âm thùy bảo mạng,
Thiên niên đẳng phái thủ sanh tồn.
Lâm thị: phong vi Giáo Sư, lấy Thiên Ân là Hương Thanh.
Ca thị: phong vi Phó Giáo Sư, lấy Thiên Ân là Hương Ca.
Ðường thị: đã thọ mạng Thiên sai cứ giữ địa vị mình, còn cả chư Ái Nữ Thầy sẽ lập Ðại hội cho đủ mấy vị, rồi phong sắc một lần; Thầy còn đợi Minh Lý hiệp nữa, nghe à!
Thầy ban ơn cho các con.
Cứ hành lễ theo lời dặn. |
[ÐẠO SỬ Quyển II Từ năm Ất Sửu (1925) đến năm Kỷ Tỵ (1929). Soạn giả Nữ Đầu Sư Hương Hiếu.] |
NGÀY 16-10-BÍNH DẦN (DL. 20-11-1926) Thầy lập Pháp Chánh Truyền Cửu Trùng Đài nam phái.
Samedi 20 Novembre 1926 (16-10-Bính Dần)
Từ Lâm Tự
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ VIẾT CAO ÐÀI
GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG
GIÁO TÔNG nghĩa là Anh Cả các con, có quyền thay mặt THẦY mà dìu dắt các con trong đường Ðạo và đường Ðời. Nó có quyền về phần xác chớ không có quyền về phần hồn. Nó đặng phép thông công cùng Tam Thập Lục Thiên và Thất Thập Nhị Ðịa Giái đặng cầu rỗi cho các con, nghe à. Chư Môn Đệ tuân mạng.
CHƯỞNG PHÁP ... … …
... ... ... … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … …
Kỳ dư THẦY giáng cơ phong cho người nào thì mới ra khỏi luật lệ ấy mà thôi.
Còn Giáo Tông thì hai phẩm Chưởng Pháp và Ðầu Sư tranh đặng, song phải chịu cho toàn Môn Đệ công cử mới đặng, kỳ dư THẦY giáng cơ ban thưởng mới ra khỏi luật lệ ấy mà thôi.
Chư Môn Đệ tuân mạng!
THẦY ban ơn cho các con. |
[Xem thêm THÁNH NGÔN HIÊP TUYỂN (Bổn Thứ Nhứt Ấn bản năm Đinh Mão 1928)
trang 49, 50, 51.] |
Hòa Thượng Như Nhãn đòi chùa lại.
Sau ba ngày Đại Lễ Khai Đạo tại Thánh Thất Gò Kén, Tây Ninh, Hòa Thượng Như Nhãn và những đệ tử của ông trong phái Phật giáo Thiền lâm đều nhận xét: Tuy Đạo Cao Đài lấy danh là Phật giáo Chấn hưng nhưng cách hành đạo, cách tổ chức Hội Thánh, hệ thống Chức sắc, không có điều gì giống với Phật giáo, nhứt là kinh kệ thì dùng kinh của Minh Sư và kinh quốc âm thỉnh nơi Minh Lý Đạo, không giống kinh của Giáo hội Tăng già, làm cho các đệ tử của Hòa Thượng Như Nhãn không hài lòng. [Trích lược từ Đạo Sử Nhật Ký do Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng biên soạn 2004.]
NGÀY 2-11-BÍNH DẦN (DL. 6-12-1926) Thầy dạy lập Tân Luật.
Lundi 06 Décembre 1926 (02-11-Bính Dần)
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG
Hỉ chư Môn Ðệ, chư Ái Nữ, chư Nhu, chư Tín Nữ,
Trung bạch Thầy xin cho đình lại qua ngày thứ bảy tới sẽ nạp luật cho Thầy phê chuẩn....
Phải ở luôn luôn nơi Thánh Thất đặng lập luật sẵn. Nghe Thầy dạy, khởi đầu lập "Luật Tu" gọi là "Tịnh Thất Luật", kế nữa lập "Luật Trị" gọi là "Ðạo Pháp Luật", ba là lập "Luật Ðời" gọi là "Thế Luật", các con hiểu à?.... |
[ÐẠO SỬ Quyển II Từ năm Ất Sửu (1925) đến năm Kỷ Tỵ (1929). Soạn giả Nữ Đầu Sư Hương Hiếu.] |
NGÀY 14-11-BÍNH DẦN (DL. 18-12-1926) Đức Lý Giáo Tông dạy cách tổ chức cải Luật.
Samedi 18 Décembre 1926 (14-11-Bính Dần)
THÁI BẠCH
Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội,
Thượng Trung Nhựt, Hiền Hữu nghe dạy:
Phải viết thơ cho các Thánh nói rằng: "Buổi lập Luật phải ngưng sự phổ độ lại đôi chút" lo cho xong Tân Luật thì mới truyền bá chơn Ðạo rõ lý hơn.
Vậy ngày Ðại Lễ Thánh Giáo Giáng Sanh phải có mặt tại đây cho đủ và nạp luật cho kịp ngày ấy. Làm lễ xong qua ngày kế thì Chư Thánh mặc Ðại phục vào điện bái rồi Hiền Hữu biểu sắp ghế vòng theo Ðại điện. Hiền Hữu và Ngọc Lịch Nguyệt lên tọa bửu vị, rồi theo chức phận Chư Thánh ngồi vòng hai bên như lúc Hiền Hữu còn tại Thượng Nghị Viện đặng cải luật đó vậy. ... ... ... |
[ÐẠO SỬ Quyển II Từ năm Ất Sửu (1925) đến năm Kỷ Tỵ (1929). Soạn giả Nữ Đầu Sư Hương Hiếu.] |
NGÀY 20-11-BÍNH DẦN (DL. 24-12-1926): NOEL. Đức Chí Tôn dạy về Tân Luật.
24-12-1926
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG
THẦY mừng các con.
Các con ôi! Nếu nói rằng THẦY đã nhiều cực nhọc từ ngày khai đạo đến chừ, Ðạo đặng phổ thông mau chóng dường nầy, thì đáng lẽ THẦY mừng cho các con lắm mới phải... Sao THẦY lại buồn??? Các con ơi! Các con đã chịu lắm khổ não nơi biển trần nầy. Từ mười ngàn năm rồi, đã ở dưới quyền tà quái áp chế. Vì vậy mà THẦY phải phế hết Bạch Ngọc Kinh, Huỳnh Kim Khuyết, giáng trần độ rỗi các con, chớ chi THẦY đến mà làm cho giảm sự khổ não các con chẳng đặng nữa thì thôi, lẽ nào còn lập Tân Luật ràng buộc các con thêm nữa. Vì cớ mà THẦY buồn... … THẦY tỏ thật, cái Luật Lệ, THẦY khiến các con hiệp chung trí mà lập thành đây, nó có ảnh hưởng về đạo đức Tiên phong Phật sắc của các con, nên THẦY buộc mình cam chịu vậy; chẳng luật lệ thì trái phép, mà trái phép thì thế
nào vào Bạch Ngọc Kinh cho đặng... Vậy các con rán làm phận sự cho hoàn toàn, rồi có Thái Bạch giáng cơ sửa luật. |
[THÁNH NGÔN HIÊP TUYỂN (Bổn Thứ Nhứt Ấn bản năm Đinh Mão 1928) trang 60.] |
NGÀY 13-12-BÍNH DẦN (DL. 16-1-1927) Đức Lý Giáo Tông dạy cách dâng Tân Luật.
Tây Ninh, 16-01-1927 (13-12-Bính Dần)
THÁI BẠCH
Lão khen chư Đạo Hữu... Ðại hỉ... Ðại hỉ...
Thượng Tương Thanh, coi Lão hành sự mà bắt chước.
... ... ... … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … …
TÁI CẦU
THÁI BẠCH
Thiên điều mầu nhiệm của Ðạo còn thiếu sót lắm.
Cười...
Nhưng điều ấy chư Hiền Hữu biết đâu mà lập cho đặng… Hại thay! Nếu chẳng có cơ mầu nhiệm bí mật ấy thì chẳng thành Luật, nếu chẳng thành Luật, thế nào thành Ðạo?
Cười...
Lão tâu cùng Ðại Từ, Ðại Bi, xin thêm vào Luật những điều bí mật yếu trọng ấy; vậy chư Hiền Hữu cũng phải cầu khẩn với Lão, nội hạ tuần tháng nầy thì khởi nguyện; dặn các Thánh Thất, các Đạo Hữu phải để lòng thành khẩn; hiệp sức làm một với Lão mà nài xin Thánh Luật, nghe à.
Hễ Ðạo trọng thì tức nhiên chư hiền hữu trọng; vậy thì chư hiền hữu biết mình trọng mà lo sửa vẹn người đời…. Từ đây Lão hằng giữ gìn cho chư Hiền Hữu hơn nữa; nếu thoảng Lão ép lòng cầm quyền thưởng phạt phân minh, là có ý muốn giá trị của chư Hiền Hữu thêm cao trọng nữa; vậy Lão xin đừng để dạ phiền hà nghe.. |
[Xem thêm THÁNH NGÔN HIÊP TUYỂN (Bổn Thứ Nhứt Ấn bản năm Đinh Mão 1928)
trang 62, 63.] |

NGÀY 1-1-ĐINH MÃO (DL. 2-2-1927): TẾT Đinh Mão.
Thầy tổng kết 1 năm truyền Đạo: độ được 4 muôn môn đệ.
Tây Ninh, 1 Février 1927 (01-01-Ðinh Mão)
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ VIẾT CAO ÐÀI
GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG
Các con... Mừng các con.
Trung, Cư, Tắc, mấy con nhớ đêm nay năm rồi thể nào, còn nay ra thể nào chăng?
Trịnh thị Ái Nữ, Hiếu, hai con đã thấy THẦY giữ lời hứa thế nào chăng?
THẦY lập Ðạo năm rồi ngày nầy, thì Môn Đệ của THẦY chỉ có 12 đứa, mà bốn đứa đã vào nơi tay Chúa Quỉ, chỉ còn lại tám. Trong tám đứa thì lại còn một đôi đứa biếng nhác mà không hành Đạo. THẦY hỏi nếu chẳng phải quyền hành THẦY, dầu cho một vị Phật thiệt lớn giáng thế đi nữa, cũng chưa có phương chi mà độ hơn bốn muôn sanh linh, nhờ tay có sáu đứa Môn Đệ trong một năm cho đặng bao giờ.
THẦY vui mầng, THẦY khen tặng hết cả bốn muôn Môn Đệ của THẦY. ... ... ... |
[Xem thêm THÁNH NGÔN HIÊP TUYỂN (Bổn Thứ Nhứt Ấn bản năm Đinh Mão 1928)
trang 70, 71, 72.] |
Đức Lý Giáo Tông lập Pháp Chánh Truyền Cửu Trùng Đài nữ phái.
... ... ... … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … …
THÁI BẠCH
Hội Thánh nghe Lão ban sắc phục cho Nữ phái; nghe và từ đây xem sắc tốt ấy mà hành lễ theo đẳng cấp.
Nữ Phái phải tùng Ðầu Sư Nữ Phái, song tùng quyền của Giáo Tông và Chưởng Pháp. Ðầu Sư Nữ Phái cũng phải chịu công cử theo luật Hội Thánh ban hành, theo luật lệ Hội Thánh ban xử đường Ðời và đường Ðạo. Ðầu Sư Nữ Phái mặc một Ðạo phục y như Ðạo phục Ðầu Sư Nam Phái, phải đội một Ni Kim Cô như các Vãi chùa, toàn hàng trắng chín dải, áo có thêu bông sen. Cái Kim Cô có choàng từ đầu tới gót. Đội mão Phương Thiên, trên chót Phương Thiên ngang đầu tóc, có Thiên Nhãn Thầy bao quanh một vòng Minh Khí, đi giày Vô Ưu màu trắng, trên chót để chữ Hương, nghe à.
Phối Sư. ... ... ... |
[ÐẠO SỬ XÂY BÀN Năm Ất Sửu (1925) quyển I. Soạn giả Nữ Đầu Sư Hương Hiếu.] |
NGÀY 12-1-ĐINH MÃO (DL. 13-2-1927) Thầy lập Pháp Chánh Truyền Hiệp Thiên Đài.
13 Février 1927 (12 tháng Giêng Ðinh Mão)
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ VIẾT CAO ÐÀI
GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG
Các con. Cả chư Môn Đệ khá tuân mạng!
HIỆP THIÊN ĐÀI là nơi THẦY ngự cầm quyền thiêng liêng mối Ðạo. Hễ Ðạo còn thì Hiệp Thiên Ðài vẫn còn.
THẦY đã nói Ngũ Chi Ðại Ðạo bị qui phàm là vì khi trước THẦY giao chánh giáo cho tay phàm, càng ngày càng xa Thánh giáo mà lập ra phàm giáo, nên THẦY nhứt định đến chính mình THẦY đặng dạy dỗ các con mà thôi, chớ không chịu giao chánh giáo cho tay phàm nữa.
Lại nữa Hiệp Thiên Ðài là nơi của Giáo Tông đến thông công cùng Tam Thập Lục Thiên, Tam Thiên Thế Giái, Lục Thập Bát Ðịa Cầu, Thập Điện Diêm Cung mà cầu siêu cho cả nhơn loại. THẦY đã nói sở dụng thiêng liêng; THẦY cũng nên nói sở dụng phàm trần của nó nữa.
… … … … … … … … … … … … … … … … … … … … …... ... |
[Xem thêm THÁNH NGÔN HIÊP TUYỂN (Bổn Thứ Nhứt Ấn bản năm Đinh Mão 1928)
trang 75, 76.] |
NGÀY 14-1-ĐINH MÃO (DL. 15-2-1927) Thầy phong Chức sắc nữ phái kỳ nhứt tại Thánh Thất Gò Kén.
Cơ Phong Thánh ngày 14 tháng Giêng năm Ðinh Mão,
Chùa Gò Kén, Tây Ninh (Dl .15 Février 1927).
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG
Thầy đã lập Ðạo nơi cõi Nam nầy là cốt để ban thưởng một nước từ thuở đến giờ hằng bị lắm cơn thạnh nộ của Thầy. Thầy lại tha thứ, lại còn đến ban thưởng một cách vinh diệu, từ tạo Thiên lập Ðịa chưa nước nào dưới quả địa cầu 68 nầy đặng vậy. Cốt để ban thưởng cho các con, thì các con hưởng phần hơn đã đáng, lẽ nào Thầy đã để phần nhiều cho các nước khác sao? Ôi, mà hại thay! Thảm thay! Ðau đớn thay!
Hòn ngọc đẹp đẽ quí báu dường nầy, Thầy đến cho các con; các con lại học kiêu căng trề nhún. Thầy đã chán mắt thấy phái Nữ hành Ðạo thế nào. Biết bao phen Thầy buồn, mà buồn rồi lại giận. Muốn chẳng lập Nữ phái mà làm gì, nhưng trai hay gái cũng đồng con, Thầy không nỡ đành lòng từ bỏ. ... ... ... |
[ÐẠO SỬ XÂY BÀN Năm Ất Sửu (1925) quyển I. Soạn giả Nữ Đầu Sư Hương Hiếu.] |
Thánh danh chư Chức Sắc Nữ phái kể tên dưới đây thọ Thiên Ân ngày 14 tháng Giêng năm Ðinh Mão (15-2-1927), chùa Gò Kén, cơ Phong Thánh kỳ nhứt.
Phối Sư 2 vị.
Giáo Sư 8 vị.
Giáo Hữu 28 vị.
Lễ Sanh 56 vị.
[Xem thêm ÐẠO SỬ Quyển II Từ năm Ất Sửu (1925) đến năm Kỷ Tỵ (1929). Soạn giả Nữ Đầu Sư Hương Hiếu.]
NGÀY 15-1-ĐINH MÃO (DL. 16-2-1927) Đức Lý Giáo Tông dạy ban hành Tân Luật gấp.
THÁI BẠCH
Hỷ chư Đạo hữu, chư Đạo muội, chư chúng sanh.
Chư Đạo hữu bình thân.
Thầy đã dạy ban hành Tân Luật liền mà đã ba ngày còn nằm trước mặt Lão, tiếc thay Lão không xác thịt như chư Hiền hữu vậy.
Cả Hội Thánh từ lập đến giờ chưa làm một việc nào xong hết.
Lấy liền bây giờ, ngày mai làm thế nào ban hành cho kịp. ... ... ... |
[Trích lược từ Đạo Sử Nhật Ký do Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng biên soạn 2004.] |
NGÀY 18-1-ĐINH MÃO (DL. 19-2-1927) tại Thánh Thất Gò Kén. Đức Lý dạy mua đất tại Tây Ninh và dạy làm ấn cho Chưởng Pháp và Đầu Sư.
Chùa Gò Kén, Le 19 Février 1927 (19-01-Ðinh Mão).
THÁI BẠCH
Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội,
Cười... Thượng Trung Nhựt ngày nay rán lắng nghe Lão dạy nghe, chẳng vì Thánh Thất Như Nhãn phản ngôn mà trễ phổ thông Thánh giáo, cười... Ðã hiểu đời còn mê muội, chẳng phân đặng chơn giả thế nào, thảm thay! Có một điều đáng trách là một phái yêu dấu của Chí Tôn dám cả gan nghịch Thiên mà phải đọa trầm luân muôn kiếp. Xét đến công tu khó ngăn giọt lụy, Chí Tôn đau đớn bấy nhiêu, Lão càng giận bấy nhiêu. Biết bao phen Lão cầm viết toan bôi xóa cho rồi trọn phái oan nghiệt mà Chí Tôn nằng nằng xin Lão để cho Người gia công độ rỗi. Ngày nay Lão nhứt định chùa nầy trả lại. Song trước khi trả phải cất Thánh Thất cho xong y như lời dạy. Chư Ðạo Hữu phải hiệp sức nhau đặng lập thành Tòa Thánh, chi chi cũng ở tại Tây Ninh nầy mà thôi. Vì là Thánh Ðịa, vả lại phong thổ
tốt cho nhiều nước ngoại quốc đến đây học Ðạo. Lão muốn nơi khác mà Chí Tôn không chịu.
... ... .. Chức Sắc phải có cấp bằng, chư Chưởng Pháp, Ðầu Sư phải sắm ấn. Chưởng Pháp mộc thí phải làm tròn như con dấu thường đề chung quanh vòng ngoài chữ Lang Sa: Amnistie de Dieu en Orient, vòng trong đề chung quanh: Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ chữ Nho; Thoàn thì khắc giữa một bình Bát Du, Ðạo thì cây Phất Chủ, Nho thì bộ Xuân Thu.
Ấn của Ðầu Sư cũng in vậy, song chính giữa đề chữ: Thái, Thượng, Ngọc. Ðem vào Tòa Luật cầu chứng cho khỏi mạo nhận, khá làm các điều ấy sau Lão sẽ dạy thêm nữa. |
[ÐẠO SỬ Quyển II Từ năm Ất Sửu (1925) đến năm Kỷ Tỵ (1929). Soạn giả Nữ Đầu Sư Hương Hiếu.] |
NGÀY 7-2-ĐINH MÃO (DL. 10-3-1927) Tân Luật đã ban hành, người nhập đạo phải lập Minh thệ.
THẦY
Vì lòng bác ái, Thầy đến mở Đạo cho chúng sanh nhờ, mà cũng còn có điều trở ngại, ấy là do kẻ bất lương mà ra.
Chúng nó cũng dối lấy chữ nghĩa bác ái mà ngăn đón. Các con vì đó mà ngần ngại giữa đường, cũng vì phần đông chưa đủ nhơn cách, nên Thầy cũng phải nương theo cho qua hồi trắc trở. Thế nào rồi đây cũng có ngày phổ thông Chánh giáo đặng.
Các con đừng thấy những sự phàm quyền ấy mà lo cho Thầy không đủ quyền pháp chế trị, các con sẽ thấy phép mầu của Thầy là dường nào. Vậy, lúc nầy, những môn đệ mới phải lập thệ giữa Thầy mà nhập Đạo.
Còn Cơ Bút, dịp nào Thầy truyền lịnh sẽ thi hành. Mỗi lần ai đến cầu Đạo, phải giao lý lịch cho chủ đàn, rồi phải chạy khai về Tòa Thánh.
Bản, con hiểu không? Cứ lập đàn cúng, không Cơ Bút chi. Thầy đã hối các con ban hành Tân Luật đặng cho dễ. Như ngày nay về sau không Cơ Bút thì cứ theo Luật mà hành sự đến ngày Thầy định đoạt sẽ hay. |
[Trích lược từ Đạo Sử Nhật Ký do Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng biên soạn 2004.] |
GIẢI RÕ VỀ VIỆC
CHÍ TÔN DẠY CẤT TÒA THÁNH
Kể từ ngày Rằm tháng 10 năm Bính Dần (1926) tới Rằm tháng Giêng năm Ðinh Mão (1927) là đúng kỳ hứa mượn chùa Từ Lâm Tự (Gò Kén) ba tháng, nên Chí Tôn dạy Hội Thánh trả chùa nầy lại cho cụ Hòa Thượng Giác Hải, rồi dạy đi kiếm đất mua đặng có nơi có chỗ sẵn sàng, rồi mới dọn qua đất mới mua.
Ngày đi chọn kiếm mua đất, tôi thấy rõ là Hội Thánh Hiệp Thiên Ðài và Cửu Trùng Ðài ngồi hai xe hơi, thì Ðức Hộ Pháp, Ðức Cao Thượng Phẩm, Anh Cả Thượng Ðầu Sư Thượng Trung Nhựt, và anh Thái Thơ Thanh, anh Thượng Tương Thanh, anh Ngọc Trang Thanh, với vài vị Chức Sắc Cửu Trùng Ðài. (3)ghi chú.
Mua được đất rồi, thì Hội Thánh định ngày 13 tháng 2 Ðinh Mão (1927) dời chùa, thỉnh chư Phật dọn về đất mới mua, nay gọi là Thánh Ðịa.... ... ...
[ÐẠO SỬ Quyển II Từ năm Ất Sửu (1925) đến năm Kỷ Tỵ (1929). Soạn giả Nữ Đầu Sư Hương Hiếu.]
[Xem thêm ÐẠO SỬ XÂY BÀN Năm Ất Sửu (1925) quyển I: Khổ tâm Hành Ðạo của Ðức Cao Thượng Phẩm.]
ĐẠI ĐẠO XUẤT THẾ
Trong ba tháng hành lễ, người cầu Đạo hằng vạn. Đồng thời, Đức CHÍ TÔN lập Pháp Chánh Truyền (Hiến Pháp của Đạo) phong thưởng những người có công quả, tức lập thành Hội Thánh Hiệp Thiên và Cửu Trùng Đài. Đức Ngài dạy Hội Thánh chung lập Tân Luật Đạo. Ba tháng trôi qua, Hội Thánh đã thành lập, pháp luật đã có thì Đạo nghiễm nhiên thành một nền Tân Tôn Giáo, danh gọi là Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, có đủ cả lễ nghi thờ phượng, tế tự, có qui điều giới luật rõ ràng và một Hội Thánh cai quản. Sau ba tháng hành lễ tại Từ Lâm Tự, Tòa Thánh được dời về Thánh Địa bây giờ, nhằm ngày 13 tháng 2 năm Đinh Mão (1927). [GIÁO LÝ. Soạn giả: Tiếp Pháp Trương Văn Tràng.]
(1) GHI CHÚ
Ngày 10-11-Ất Sửu (dl 25-12-1925) Đấng A Ă Â xưng danh là Cao Đài Thượng Đế.
25-12-1925 Noel
A.Ă.Â
Cao Ðài đã hiểu lòng của ba đệ tử: Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang.
Ngài đã ban đầy ơn cho mỗi người, đêm nay phải vui mừng vì là ngày của Thượng Ðế xuống trần dạy Ðạo bên Thái Tây (Europe)…. … |
[ÐẠO SỬ XÂY BÀN Năm Ất Sửu (1925) quyển I. Soạn giả Nữ Đầu Sư Hương Hiếu.] |
Ngày 31-12-1925 (âl. 16-11-Ất Sửu): Ðức Chí Tôn tá danh A.Ă. xưng danh THẦY
31 Décembre 1925
A.Ă.Â
Ba con thương Thầy lắm há?
Con thấy đặng sự hạ mình của A.Ă. như thế nào chưa? Con có thấy thấu đáo cái quyền năng của Thầy chưa? Người quyền thế nhứt như vậy có thể hạ mình bằng A.Ă. chăng?
A.Ă. là Thầy.
Thầy đến con thế ấy, con thương Thầy không? ... ... ... |
[ÐẠO SỬ XÂY BÀN Năm Ất Sửu (1925) quyển I. Soạn giả Nữ Đầu Sư Hương Hiếu.] |
(2) KHẢO DỊ
THƯỢNG ÐẾ THÂU PHỤC
ÔNG CỰU THƯỢNG NGHỊ VIỆN LÊ VĂN TRUNG (Cholon)
… … … Mãi đến ngày mồng năm tháng chạp, năm Ất Sửu (28 Janvier 1926) ở Saigon, Ðức Thượng Ðế giáng cơ dạy hai ông Cư Tắc đem cơ vô nhà ông Trung (Cholon, Quai Testard) cho Ngài dạy việc. Hai ông nầy lấy làm bợ ngợ vì thuở nay chưa hề quen biết ông Trung, nhưng lịnh trên đã dạy, dưới phải vâng theo.
Hỏi thăm tìm đến ông Trung, ông Cư thuật rõ đầu đuôi, thì ông Trung lòng rất hoan nghinh, lật đật sắm sửa thiết đàn, Thượng Ðế giáng cơ dạy Ðạo và khuyên việc tu hành…. … … |
[ĐẠI ĐẠO CĂN NGUYÊN - Soạn giả: Nguyễn Trung Hậu, Ấn bản 1930 trang 32, 33.] |
(3) GHI CHÚ
Đức Lý dạy cuộc đất ấy là Thánh địa vì có Lục Long Phò Ấn..
Le 24 Février 1927 (23-01-Ðinh Mão).
THÁI BẠCH
Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội,
Lão khen Thái Thơ Thanh phải đó đa, tưởng chư Hiền Hữu không thấy nữa. Lão cắt nghĩa vì sao cuộc đất ấy là Thánh Ðịa: Sâu hơn 300 thước như con sông, giữa trung tim đất giáp lại trúng giữa 6 nguồn làm như 6 con rồng đoanh nhau. Nguồn nước ấy trúng ngay đỉnh núi gọi là Lục Long Phò Ấn; ngay miếng đất đó đặng ba đầu, một đầu ra Giếng Mạch Ao Hồ, hai đầu nữa bên cụm rừng bên kia.
Người Lang Sa chỉ đòi hai mươi ngàn, nói rồi trả đúng có mười lăm ngàn. Lão dặn thì thành trả có 17, 18 ngàn thì đặng vậy.
Còn xin khai khẩn miếng đất rừng bên kia nữa mới trọn. Ðất nay còn rẻ, miếng đất chung quanh Thánh Ðịa ngày sau hóa vàng. Chư Hiền Hữu biết lo lập ngày sau rất quý báu.
Thăng. |
[ÐẠO SỬ Quyển II Từ năm Ất Sửu (1925) đến năm Kỷ Tỵ (1929). Soạn giả Nữ Đầu Sư Hương Hiếu.] |
|

 |
|
Kinh Tứ Thời Diễn Nghĩa |
BÀI ĐẠI LA DIỄN NGHĨA
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ CHÍ TÂM QUI MẠNG LỄ
Trên Cao Đài Ngọc Hoàng Thượng Đế,
Giáng Chơn Linh mạng lễ tâm qui.
Đại La Thiên Đế vô vi,
Ngôi sao Thái Cực nguy nguy Thánh Hoàng.
Khắp quần sanh dương dương hóa dụng,
Muôn vật đều khâm phục bốn phương.
Hùynh kim chói chói khuyết vàng,
Phau phau tuyết trắng rõ ràng Ngọc Kinh.
Đạo Huyền vi phân minh chánh trực,
Chẳng nói phô mà rất hóa thông?
Không thị sắc, sắc thị không,
Vô vi đức hóa khắp vòng hư linh.
Ngự lục long vân hành võ thí,
Khắp bầu trời ngươn khí lưu hành.
Khí chia tứ tượng đành rành,
Bao trùm chất chứa khắp vành chúng sanh.
Đức Càn kiện cao minh vô cực,
Khắp muôn loài thiện ác xét soi.
Huyền vi quảng đại cơ trời,
Tinh trong họa phước rõ mười chẳng sai.
Trên cai khắp ba mươi sáu cõi,
Lại quản thâu thế giái tam thiên.
Dưới trị bảy mươi hai miền,
Bộ châu tứ đại đều liền xét soi.
Tiên hậu thiên đất trời sau trước,
Đại Từ Phụ cai quản thinh không.
Kim kim cổ cổ trong vòng,
Cũng đều phổ tế pháp tông muôn phần.
Đã chúa tể tinh, thần, nhựt, nguyệt,
Lại quản cai Tiên, Phật, Thánh, Thần.
Đạo trời trạm tịch nhi chân.
Khôi khôi mịch mịch rõ phần tô nghiêm.
Đạo vô cực khắp cùng biến hóa,
Giác thế kinh truyền bá muôn đời.
Oai linh mạt trắc khôn dời,
Hóa sanh truyền giáo cho người đởm đương.
Đạo nhiệm mầu khắp trời vô lượng,
Công vô cực, vô thượng, vô biên.
Đại Thánh, đại nguyện phát nguyền,
Nguyện xin đại tạo, nguyện liền đại bi.
Đạo Huyền khung nguy nguy Thượng Đế,
Đức Ngọc Hoàng ban tế phước lành.
Thiên Tôn đại sá rành rành,
Lạy mười hai lạy tấc thành quì tâu. |
THÍCH GIÁO
NHIÊN ĐĂNG CỔ PHẬT CHÍ TÂM QUI MẠNG LỄ
Nam mô Nhiên Đăng thượng cổ Phật,
Chí tâm qui gang tấc một lòng.
Tôn sư hổn độn khắp vòng,
Kiền khôn chủ tể giáp trong ba ngàn.
Đem nhứt khí về miền thế giới,
Góp trần hoàn tám cõi trong tay.
Huệ đăng đèn sáng đêm ngày,
Soi ba mươi cái cõi dài quang minh.
Đạo trường lưu oai linh phép phật,
Mở sáng soi thất thập nhị tào.
Nam mô vô cực đạo cao,
Hư linh dạy mở biết bao nhiêu người?
Oai phép phật nhả hơi làm mống,
Cột kình thiên phút bóng lưng trời.
Long truyền hóa kiếm rõ mười,
Chỉ ngay xuống đất, đất thời chia ba.
Công tham tán bao la Thái cực,
Khiếu huyền quan phá giấc hồn mê.
Nam mô tánh hiệp vô vi,
Tam tài bí chỉ thâu về tấc gang?
Mưa ơn khắp mười phang nhuần gội,
Chống bè từ khắp cõi vô vi.
Nam mô Đại từ Đại bi.
Đại Thánh Đại nguyện qui y một lòng.
Đại Tiên thiên hiện trong chánh đạo,
Phật Nhiên Đăng thọ giáo Như Lai.
Vô vi xiểng giáo liêng đài,
Thiên tôn trì tụng ngày ngày quì tâu. |
TIÊN GIÁO
THÁI THƯỢNG CHÍ TÂM QUI MẠNG LỄ
Đạo Tiên giáo có ngôi Thái Thượng,
Bẩm nhứt nguyên Ngài giáng xuống trần.
Tiên thiên khí hóa thông thần,
Ngọc Hoàng phán chỉ Đạo quân dạy đời.
Sanh tri thánh nơi nơi đều rõ,
Kể công người khôn tỏ khôn lường.
Cõi trên Thái Cực hỗn mang,
Siêu quần cai hết mọi hàng Chơn Tiên.
Khí nhứt ngươn vô biên vòi vọi,
Diệu hóa đầy trên cõi Tam Thanh.
Mới hay đức hoán hư linh,
Phép siêu quần thánh, thần minh khác phàm.
Giữa tháng hai ngày rằm giáng thế,
Dưới gốc cây liền xé nách ra,
Chỉ cây lý rằng họ ta.
Mới sanh tóc đã pha pha bạc đầu.
Phép linh thông nhiệm mầu vô ngã,
Đạo diệu huyền biến hóa thần thông.
Nhác tròng tử khí phương đông,
Roi truyền đạo đức khắp trong san hà.
Nước Tây thiên Lưu sa khi độ,
Phép hóa ra thiệt rõ độc tôn.
Mơ màng đơn tích dẫu còn,
Tất duyền, Phương Sóc là con cái nhà.
Trước trời đất mở ra nhơn loại,
Đạo đức kinh vạn đại sờ sờ.
Kiền khôn vặn máy huền cơ,
Treo gương nhựt nguyệt bao giờ lạt phai.
Đạo pháp thiệt thấu ngoài thiên cổ,
Ngôi Cửu hoàng tỷ tổ như y,
Đại thiên khắp cõi biên thùy,
Từ ân ai cũng chép ghi đức ngài.
Hộ quần sanh đời đời kiếp kiếp,
Đội ơn sâu khôn xiết thăm dò.
Thánh thần người giáng phước cho,
Chí tôn, chí cực thơm tho muôn đời.
Đạo Tiên thiên lời lời chánh nhứt,
Đức Thái Thượng đạo đức Thiên tôn,
Những người tùng giáo nhập nôm,
Tấc lòng trọn đạo chớ tồn chút sai. |
NHO GIÁO
KHỔNG THÁNH CHÍ TÂM QUI MẠNG LỄ
Hương điện Quế thơm lừng Khổng giáo,
Cõi văn đàn lên thấu Thượng cung.
Chín mươi lăm vận chẳng cùng,
Vườn thi thơ khắp vun trồng thiện căn.
Bá thiên vạn tằng tằng khai hóa,
Ruộng tâm điền phước quả thiên liêng.
Hiệu là bách hạnh bổn ngươn,
Thờ thân dạy đạo phận con hiếu đầu.
Chữ trung lại dạy câu Trí chúa,
Đạo làm tôi giữ quốc đồng hưu.
Giáng sanh ứng mộng cứu đời,
Thùy từ mẩn khổ nơi nơi dỏi truyền.
Đức thánh nhơn vẹn tuyền từ hiếu,
Trải muôn thu chi giáo lưu hành.
Thần văn thánh võ rành rành,
Đạo truyền chép để lục kinh dạy đời,
Nho tông trải khắp muôn đời hưng thạnh,
Đức Văn Truyên chí thánh Tôn sư,
Trừng chơn chánh quán vô tư,
Đạo như nhựt nguyệt muôn đòi rạng soi. |
Trích từ NHỰT KHÓA - ĐẠI ĐẠO THỪA KINH (Kinh Cúng Tứ Thời) Ấn Bản 1928
trang 26-29.◙ |
|
|

 |
|
Đệ Nhị Xác Thân và Tam Bửu: Tinh Khí Thần |

Đệ Nhị Xác Thân.
Chơn Thần là gì?
Là nhị xác thân (périsprit), là xác thân thiêng liêng. Khi còn ở nơi xác phàm thì rất khó xuất riêng ra đặng, bị xác phàm kéo níu.
Cái Chơn Thần ấy của các Thánh, Tiên, Phật là huyền diệu vô cùng, bất tiêu, bất diệt. Bậc chơn tu khi còn xác phàm nơi mình, như đắc đạo, có thể xuất ra trước buổi chết mà vân du Thiên ngoại. Cái Chơn Thần ấy mới đặng phép đến trước mặt Thầy. [TNHT Q.1 / 02. Thánh giáo dạy về việc thủ cơ chấp bút. 3 Janvier 1926]
Thần là khiếm khuyết của cơ mầu nhiệm từ ngày Ðạo bị bế. Lập Tam Kỳ Phổ Ðộ nầy, duy Thầy cho "Thần" hiệp "Tinh-Khí" đặng hiệp đủ "Tam Bửu" là cơ mầu nhiệm siêu phàm nhập Thánh.
Các con nhớ nói vì cớ nào thờ Con Mắt Thầy cho chư đạo hữu nghe.
... Phẩm vị Thần, Thánh, Tiên, Phật, từ ngày bị bế Ðạo, thì luật lệ hỡi còn nguyên, luyện pháp chẳng đổi, song Thiên Ðình mỗi phen đánh tản Thần không cho hiệp cùng Tinh Khí.
Thầy đến đặng huờn nguyên Chơn Thần cho các con đặng đắc Ðạo. Con hiểu "Thần cư tại Nhãn". Bố trí cho chư đạo hữu con hiểu rõ. Nguồn cội Tiên Phật do yếu nhiệm là tại đó. Thầy khuyên con mỗi phen nói Ðạo, hằng nhớ đến danh Thầy. [TNHT Q.1 / 05. Thánh giáo dạy cách lễ bái và thờ Thiên Nhãn. 25 Février 1926]
Mỗi kẻ phàm dưới thế nầy đều có hai xác thân. Một phàm gọi là corporel. Còn một thiêng liêng gọi là spirituel. Mà cái thiêng liêng do nơi cái phàm mà ra, nên gọi nó là bán hữu hình, vì có thể thấy đặng mà cũng có thể không thấy đặng.
Cái xác vô hình huyền diệu thiêng liêng ấy do nơi Tinh-Khí-Thần mà luyện thành.
Nó nhẹ nhàng hơn không khí.
Khi nơi xác phàm xuất ra, thì lấy hình ảnh của xác phàm như khuôn in rập. Còn khi đắc đạo mà có Tinh-Khí, không có Thần thì không thế nhập mà hằng sống đặng.
Còn có Thần không có Tinh-Khí thì khó huờn đặng Nhị xác thân.
Vậy ba món báu ấy phải hiệp mới đặng.
Nó vẫn là chất tức hiệp với không khí Tiên Thiên, mà trong Khí Tiên Thiên thì hằng có điển quang. Cái Chơn Thần buộc phải tinh tấn, trong sạch mới nhẹ hơn không khí ra khỏi ngoài Càn Khôn đặng.
Nó phải có bổn nguyên chí Thánh, chí Tiên, chí Phật, mới xuất Thánh, Tiên, Phật đặng.
Phải có một thân phàm tinh khiết mới xuất Chơn Thần tinh khiết. [TNHT Q1 / 20. Thánh giáo dạy thọ truyền bửu pháp và luyện đạo. Ngọc Ðàn (Cần Giuộc). Samedi, 17 Juillet 1926. 8 tháng sáu Bính Dần.]

Ba thể con người.
Con người là kết tinh của TẠO HÓA, do ba phần tạo nên:
Phần thứ nhứt là THÂN THỂ hay Vật Chất. Phần thứ hai là CHƠN THẦN hay Thần Hồn. Phần thứ ba là CHƠN LINH hay Linh Hồn.
NHỤC THÂN (Đệ Nhứt Xác Thân).
Cả cơ chuyển sanh, biến kiếp, đều do khí Âm Dương, Ngũ hành, diệu hợp mà nên thể chất và trưởng thành. Nghĩa là từ buổi thành hình trong thai bào, đến khi ra đời và nên vai, nên vóc, lúc nào cũng nhờ Âm Dương, Ngũ hành sanh hóa, trưởng dưỡng. Mãi đến khi thể xác mãn kỳ sanh thọ, thì thể xác tiêu tan. Lúc bấy giờ, các yếu tố lại hườn nguyên về bản chất tự nhiên của nó, để rồi chuyển hóa hình hài khác nữa.
Vậy, nhơn thân vốn tạm khí chất của năm hành là: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa và Thổ cấu thành……
CHƠN THẦN (Đệ Nhị Xác Thân).
Chơn thần cũng gọi là Thần quang, cái thể bán hữu hình ấy có một sức mạnh thiêng liêng và có bổn phận dìu dẫn nhục thân hành động theo Thiên lý……
CHƠN LINH.
Chơn linh người ta là điểm sáng của Trời phú cho. Nó hằng nương theo Chơn thần đặng dự trường thi công quả tại thế gian. Chơn thần có phận sự chế ngự nhục thân. Chơn linh lại phải gìn giữ Chơn thần……
[Trích lược từ Trên Đường Tấn Hóa .Soạn giả Tiếp Pháp Trương Văn Tràng, chương thứ hai Luật Nhơn Quả, luân hồi. Và Chơn Lý Diệu Ngôn (Luật Tam Thể). Soạn Giả Kiến Tâm Phan Hữu Phước].

Tam bửu: Tinh - Khí - Thần (Trong cúng dâng Tam bửu).
TINH: tượng trưng bằng Hoa.
• Đệ nhứt xác thân. • Xác thân phàm. • Giả thân.
KHÍ: tượng trưng bằng Rượu.
• Đệ nhị xác thân. • Xác thân thiêng liêng. • Chơn thần, Chơn thân.
THẦN: tượng trưng bằng Trà.
• Chơn linh, Linh hồn. • Điểm linh quang.
Tóm tắt phần Tam bửu dâng cúng Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu:
• Hoa tượng trưng TINH, là xác thân phàm, là đệ nhứt xác thân, bằng xương bằng thịt do cha mẹ phàm trần tạo nên.
• Rượu tượng trưng KHÍ, là xác thân thiêng liêng, là đệ nhị xác thân, là chơn thần, do Đức Phật Mẫu tạo ra và ban cho.
• Trà tượng trưng THẦN, là chơn linh, linh hồn, điểm linh quang do Đức Chí Tôn chiết ra từ khối Đại linh quang của Ngài để ban cho mỗi người.
Khi chúng ta cúng Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu, chúng ta dâng Hoa, Rượu, Trà, với lời cầu nguyện: "Con xin dâng cả thể xác, chơn thần và linh hồn của con cho Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu tùy phương sử dụng." [Trích lược từ Cao Đài Từ Điển do Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng biên soạn [https://caodaiebook.net/CaoDaiTuDien(v2012)/cdtd-van_T.htm#Tinh_Khi_Than].

Bí pháp giải thoát.
… … …Cơ quan giải thoát là phụng sự, dầu cho quả kiếp mà đến cũng vậy, dầu cho vì học hỏi mà đến cũng vậy, dầu cho lập vị mà đến cũng vậy. Chúng ta phải phụng sự cho Vạn Linh mới được, trong phụng sự ấy chúng ta không biết chúng ta bị quả kiếp nơi nào, người nào, nhưng nhờ phụng sự ấy mà mình gặp được người mình muốn trả nợ tiền khiên, biết đâu nhờ hồng ân Đức Chí Tôn định cho mình gặp đúng người để đặng trả, tóm lại cũng phải phụng sự mới có.
Bây giờ về học hỏi thì chúng ta muốn gì? Muốn biết mọi điều về huyền vi cơ tạo, muốn biết cho đặng thì phải phụng sự cho Vạn Linh mà thôi, rồi trong phụng sự ấy nó sẽ chỉ điều cho chúng ta muốn biết mà lập vị, và có gì hơn thay thế cho Đức Chí Tôn mà phụng sự cho Vạn linh lập vị ấy không thể gì ai chối cãi được.
Muốn làm cho đặng như Đức Chí Tôn đã làm ta phải làm gì? Ngài biểu chúng ta hiến ba món báu trong mình chúng ta là Tam Bửu.
1. Xác thịt
2. Trí não
3. Linh hồn
Tức nhiên thân thể và phàm thể của chúng ta Đức Chí Tôn biểu ta hiến cho Ngài đặng Ngài phụng sự cho Vạn Linh.
Chúng ta thấy gì? Mỗi ngày ta kêu Đức Chí Tôn làm chứng, kêu Tam Giáo làm chứng, giờ phút này con nguyện dâng cả xác thịt, trí não và linh hồn của con cho Thầy đặng Thầy làm lợi khí mà phụng sự cho Vạn linh. Hễ dâng rồi còn gì của mình nữa, có trả nợ tiền khiên chớ không có tạo nữa, nếu có tạo mà giờ phút này mình đến Đền Thánh này đây, ngồi trong lòng của Đức Chí Tôn đứng trong phần tử Thánh Thể của Ngài tình cờ mình bị quả kiếp gì xảy đến, mình không biết, vì thân thể mình không biết duy chủ nữa mà chính Đức Chí Tôn duy chủ, vì mình giao cả thân thể mình nơi tay Đức Chí Tôn thì mình không còn biết gì nữa………
[Trích từ BÍ PHÁP / Bài 09. Đức Hộ-PhápThuyết Đạo tại Đền Thánh, đêm 08 tháng 06 Năm Kỷ Sửu (03-07-1949)].
|
Tài Liệu Tham Khảo: |
|
|
|
Bài đọc thêm chủ đề TAM BỬU [Lời thuyết đạo của Đức Hộ Pháp].
|
|

VÀI NÉT SINH HOẠT ĐẠO SỰ CỦA TỘC ĐẠO SYDNEY
Phúc trình sinh hoạt Đạo sự của Tộc Đạo Sydney
niên khóa 2023-2024.
TRẤN ĐẠO ÚC CHÂU |
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ |
CHÂU ĐẠO NEW SOUTH WALES |
Nhứt Bách Niên |
TỘC ĐẠO SYDNEY |
TÒA THÁNH TÂY NINH |
114-118 King Georges Rd,
WILEY PARK, NSW 2195, AUSTRALIA |
ĐT: +61 2 9740 5678
Email: thanhnghiep.caodai@yahoo.com.au |
NAM MÔ CAO ĐÀI TIÊN ÔNG ĐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT
Kính Hội-Thánh Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ.
Kính thưa Chư Chức Sắc, Chức Việc và Đạo Hữu Nam Nữ, các ban bộ.
|
Trích yếu: |
Phúc trình sinh hoạt Đạo sự của Tộc Đạo Sydney trong niên khóa 2023-2024. |
hưa chư Hiền,
Thay mặt Hành Hành Chánh Đạo Tộc Đạo Sydney, Châu Đạo NSW, Thiểu Phẩm kính phúc trình Hội Thánh cùng chư Chức Sắc, Chức Việc và toàn Đạo về các sinh-hoạt Đạo-sự tổng-quát của Tộc-Đạo Sydney, các Bàn Trị Sự và Tứ Vụ trong niên khóa 2023-2024. Nội dung Bản phúc trình được chia ra 2 phần chính như sau: Công việc đã thực hiện được và Kế hoạch dự kiến còn tồn đọng chưa giải quyết.
A. CÔNG VIỆC ĐÃ THỰC HIỆN TRONG NĂM QUA (2023-2024):
a)- VĂN PHÒNG ĐẦU TỘC ĐẠO:
Nhận thức rằng, Văn Phòng Đầu Tộc Đạo gắn liền với Thánh Thất. Cả hai đều là nơi rộng mở tiếp đón các giới: Đạo và Đời về phương diện Hành Chánh, hầu dìu Đời vào Đạo và đem Đạo phổ thông cho Đời. Do đó, Thánh Thất phải luôn luôn được trực tiếp điều hành bởi Văn Phòng Đầu Tộc Đạo, Ban Tứ Vụ và Liên Hương Đạo cùng hỗ tương chặt chẻ điều hành.
Sau đây, Tộc Đạo chỉ sơ lược một số việc làm cụ thể riêng về Văn Phòng, như sau:Nhận và gửi các Văn Thư:
1. Nhận và gửi các Văn Thư: Thư ngỏ, Thư mời, Thông báo các Chương trình họp, Chương trình lễ Vía và các lễ Kỷ niệm, qua các trang Web, Group Viber TT Cao Dai hoặc E-mail khi có nhu cầu.
2. Giao lưu với các cơ quan Đạo Cao Đài trong và ngoài nước, các Tôn Giáo bạn và các Cộng Đồng Sắc Tộc qua điện thư, thư tín và lưu giữ các hồ sơ cần thiết.
3. Soạn các chương trình lễ Vía Các Đấng, lễ Tang, lịch Tuần Cửu, Sớ văn, các mẫu Giấy Tắm Thánh, Sớ Cầu Đạo, Tờ Thỉnh lễ, Bảng Phân Công Trực hàng năm, Vi Bằng các Phiên họp thường kỳ và bất thường, các tài liệu Kinh Sách Đạo cho các buổi Thảo Luận và Bồi Dưỡng về Giáo Lý v.v…
4. Theo dõi chương trình thăm viếng của khách thập phương: các trường học, các bộ sở v.v…
5. Bên cạnh đó, Tộc Đạo còn nhờ sự giúp sức của một số bạn đạo làm việc thầm lặng, không thuộc ban bộ nào, phụ giúp việc thực hiện Bản Tin Hòa Hiệp, in Lịch Đạo, sưu tầm tin tức Đạo Sự, in tờ bướm, in Kinh Sách Đạo, dịch thuật và phổ biến nhiều tài liệu Đạo qua trang mạng, nhằm phổ truyền giáo lý cho Bổn đạo và khách bản xứ khi có nhu cầu tìm hiểu Đạo Cao Đài. Nhân sự trong khâu nầy hiện nay, gồm: gia đình ĐH Huỳnh Trọng, ĐH Đào Công Tâm, gia đình ĐH Trần Đại Thiện v.v...Đề nghị đồng đạo vào trang mạng http://www.caodaiebook.net. Nội dung gồm có: Kinh sách Đạo Cao Đài, gồm phần Audio, Video và Bản Tin Hòa Hiệp on line. Ngoài ra, Hiền Hữu Đào Công Tâm cũng luôn cập nhựt trang mạng "Sydney Center for Studies in Caodaism"
hoặc web site: www.daotam.info. Nói chung, các sinh hoạt Đạo Sự đều tập trung phần lớn vào Thánh Thất, không chỉ là chỗ dựa tinh thần, nơi trụ vững Đức Tin của quí Tín Hữu và Đạo tâm, còn là nơi phổ truyền nền Chơn Đạo ra khắp vạn quốc, mà mỗi Môn Sinh Cao Đài đều có bổn phận phải góp tay vào gìn giữ và phát triển rộng khắp.
b)- LỄ VỤ:
.Nhiệm vụ của Lễ Vụ là chuyên lo việc nghi lễ cúng kiến, nói chung, nên thường có mặt sắp xếp các Đàn Lễ. Các Đàn Sóc, Vọng, Nguơn Hội và Lễ Vía, Kỷ niệm thường lệ hàng tháng tại Thánh Thất New South Wales luôn luôn có sự trợ giúp của Chức Việc các Hương và Tứ Vụ nên việc điều hành các lễ cúng tương đối ổn định. Đương kim Lễ Vụ Tộc Đạo/CTS Trần Ngọc Điệp đã tổ chức các Lễ sau đây:
- Lễ Tắm Thánh
- Lễ nhập môn hoặc tái thệ
- Lễ Thỉnh An Thánh Tượng hoặc An Vị tại tư gia
- Hôn lễ:
- Lễ Cầu Giải Bịnh, Lễ Tang, Cầu Siêu, Tuần Cửu, Tiểu Tường và Đại Tường.
- Lễ hạ tro cốt
- Tham gia các lễ do Cộng Đồng hoặc Council mời. v.v…
c)- HỘ VỤ: Xin xem báo cáo tài chánh do Hộ Vụ Nguyễn Việt Sơn niêm yết tại Thánh Thất.
d)- LƯƠNG VỤ: Khâu ẩm thực thường do gia đình tang chủ lo cùng với sự trợ giúp của đồng đạo và Hương trực hàng tháng cộng với Lương Vụ Trương Thị Dân (tự Cẩm Vân) phụ trách điều hành Phòng trù.
e)- CÔNG VỤ:
Đây là công tác chính của toàn Đạo trong năm nay. Tộc Đạo tạm thay mặt Trưởng Ban Công Vụ Đinh Võ Công Thành, Phó Ban Công Vụ/CTS Bùi Công Nhuần và ĐH Phan Văn Hoàng (Kỷ sư Xây Dựng) ghi tóm tắt một số công tác chính trong việc Đại Tu Bổ toàn bộ Thánh Thất xuống cấp sau 33 năm xây dựng (1991-2024) dù đã được tu sửa nhiều lần trước đây.
- Rằm tháng Giêng Giáp Thìn (24-02-2024): Tộc Đạo quyết định xúc tiến chương trình Đại Tu Bổ Thánh Thất NSW và nhờ ĐH Hoàng tìm chỗ khảo giá giàn giáo (scaffold).
- Chủ nhựt, 03-03-2024: Ban Công Vụ và các Chức Sắc, Chức Việc họp tại Điện Thờ Phật Mẫu có mặt Hiền Huynh HT Nguyễn Chánh Giáo, HT Nguyễn Thành Nghiệp, CV Đinh Võ Công Thành, CTS Bùi Công Nhuần, CTS Trần Ngọc Điệp, CTS Lý Tú Bình, PCQ Nguyễn Tấn Xoàn thống nhứt quyết định mướn giàn giáo tại Công Ty GM-S Scaffolding (27 Rossini Dr. Hinchinbrook với giá A$17,600 do ĐH Phan Văn Hoàng khảo giá.
- Thứ bảy, 09-03-2024: Các vị về Thánh Thất làm vệ sinh, dọn trống cây kiểng và vật dụng quanh Bạch Ngọc Chung Đài và Lôi Âm Cổ Đài cùng với HĐ Huỳnh Trọng. Liền sau đó, scaffold đã được chở đến, đồng thời Tộc Đạo nhờ CTS Điệp liên lạc, phân công nữ phái chia nhau lo phần ẩm thực. Trong khi, HM Mộng Thơ (Hiền nội CTS Nhuần) đã dọn sẵn thức ăn trưa cho mọi người.
- Thứ tư, 13-03-2024: Giàn giáo đã được ráp xong, dù có chút trở ngại do lấn ranh sang trường Lakemba PS, nhưng đã được HĐ Nhân và ĐH Hoàng liên lạc với Công Ty để giải quyết ổn thỏa. Cùng lúc, HĐ Hiếu tự chở các loại cây gỗ, ván ép từ nhà đến lót thêm cho giàn giáo được an toàn và vững chắc. Chưa kể phải cùng với HĐ Xoàn mượn thêm giàn scaffold từ vài nơi khác.
- Thời gian và công việc liên tục đòi hỏi sự hy sinh cao độ của người làm công quả đến nỗi phải quên các việc riêng tư, quên việc gia đình, chẳng so đo tính toán, chỉ vui vẻ làm việc cho hoàn tất. Công vụ Thành và Nhuần (tự Hiếu) sắp xếp công tác từ trên cao xuống thấp, lần lượt: trên nóc lầu chuông, lầu trống (gồm bầu linh, con lươn, mái ngói . . .bị bể, nứt, rỉ sét, cần thay thế); các tầng mái ngói phụ bị xệ do giàn chống yếu, các "ives" chứa nhiều xác và phân chim, fibro mục, con lươn nứt…; các handrails nứt, balcons đọng nước; mái ngói đóng rong rêu, nứt, dột... cho tới các vách tường và hoa văn hư hỏng, cần đắp trám và sơn lại bằng loại sơn tốt, bền lâu hơn.
- Về phần ẩm thực cũng là khâu quan trọng, không kém. Các vị nữ phái lẫn nam phái tham gia phục vụ ẩm thực không mệt mỏi, không thể kể hết được. Nếu công việc khó khăn, mệt mỏi bao nhiêu thì từng ly cà phê, từng miếng bánh ngọt v.v…đem lại cho bạn đạo thi công phấn khởi, nhẹ nhàng bấy nhiêu.
- Nói chung, theo thiển ý, việc đại tu bổ có thể gian nan hơn là tân công tác. Đồng đạo thực hiện công việc với tất cả thành ý là nghĩa cử đáng được đánh giá cao, mà một Tờ Giấy Chứng Công Quả do Tộc Đạo thân ái gửi đến, chỉ để kỷ niệm việc góp công quả trong quá trình hành đạo. Chúng tôi thành thật xin lỗi quý vị bị sót tên trong Danh sách công quả, do thiếu cập nhựt. Hy vọng, quý Huynh Tỷ Đệ Muội niệm tình tha thứ trong tinh thần: "Bao nhiêu công quả bấy nhiêu phần".
- Ngày Thứ sáu, 03-01-2025, để kịp thời gian tu bổ nội thất Bửu Điện, thay vì phải chờ đến sau khi cúng Đưa Chư Thánh, Ban Công Vụ gồm các bạn đạo: Đinh Võ Công Thành, Bùi Công Nhuần, Lý Tú Bình, Nguyễn Tấn Xoàn, Nguyễn Đức Nhân, Huỳnh Bá, Đặng Văn Đức, Trần Đại Thiện, Phạm Văn Dai và HT Nghiệp bắt tay tiếp tục sơn lại các phần không liên hệ đến các bàn thờ, như: vòm trần, hộp đèn, trần bị ẩm mục, hệ thống đèn, bao quang cũ, cột rồng v.v... Đồng thời HĐ Khi, HM Cẩm Vân, HM Lệ Liễu lau các cửa kính và lau sàn. Chưa kể phần ẩm thực đã được quí vị nữ phái lo liệu. Sau khi Đưa Chư Thánh, Ban Công Vụ và đồng đạo tiếp tục hoàn tất, làm vệ sinh, chùi lư, trang hoàng nhiều thứ để chuẩn bị đón mừng Tết Ất Tỵ đến.
B- KẾ HOẠCH DỰ KIẾN CHO NHIỆM KỲ (2023-2028):
1. Về bồi dưỡng: Chúng tôi luôn hy vọng tre sắp tàn thì măng phải mọc. Theo đó, thế hệ kế thừa "hậu sinh khả úy", năng nổ, có kiến thức, năng trau giồi trí tuệ, hầu đạt được bốn tiêu chuẩn căn bản của một Chức Việc trong Hội Thánh Em, về: Hạnh Đức, Học Thức, Công Quả và Khả năng giáo hóa nhơn sanh. Hạnh đức là ưu tiên hàng đầu. Học thức là kiến thức về văn hóa, chưa đủ. Việc học Đạo, hiểu Kinh điển và Giáo lý rất cần thiết. Rồi tới thực hành Tam Công hầu nêu gương Giáo hóa nhơn sanh.
Muốn được vậy, việc làm thực tiễn trước mắt là các Tân Chức Việc phải học Hạnh Đường gồm: Giáo Lý, Luật Pháp, Hành Chánh, Nghi lễ … hay nói đơn giản là phần Giáo Lý, Luân Lý và Hành Chánh Đạo.
2. Về phát triển Trí, Đức, Thể Dục cho đội ngũ Thanh Thiếu Niên và Thiếu Nhi Đại Đạo.
3. Về nghiên cứu, dịch thuật và phổ thông Kinh Sách Đạo.
4. Về tu bổ: Tiếp tục sửa chữa các phần đang xuống cấp khác.
5. Về giải trí và thư giản: Tổ chức picnic, tham quan, thăm viếng đồng đạo v.v….
ính chư Huynh, Tỷ, Đệ, Muội thân ái,
Tường trình tổng quát thành quả hành Đạo trong năm qua, trên đây chỉ là một phần trong vô số đóng góp giá trị của đồng Đạo, dù lớn dù nhỏ, không thể kể hết được. Chúng tôi không tránh được việc bỏ sót nhiều đóng góp đáng được ca ngợi của đồng đạo. Vai trò phổ độ Chúng Sanh trong điều kiện ở hải ngoại, tưởng rất cần thiết đối với giới trẻ may duyên được sống với người bản xứ. Chúng tôi khẩn thỉnh quý Huynh Tỷ Đệ Muội hãy vì lời Minh Thệ, đến với nhau trong tinh thần "Nhân Năng Hoằng Đạo" để cùng làm tròn câu Ngũ Nguyện và làm tròn bổn phận của một Tín Đồ Cao Đài. Thày đã từng dạy:
"Tân toan khổ hạnh phải trau giồi,
Bước tới đường dài chớ trở lui.
Công khó độ đời đừng nệ khó,
Phước dư đợi lúc hưởng ơn Trời." (TVDĐ, Q.2)
Sau cùng, cầu xin Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu và các Đấng Thiêng Liêng ban bố Ân Lành cho tất cả Môn Đệ chúng con biết thương yêu nhau, hầu trợ duyên cho nhau giữ gìn và hoằng hóa Đạo Nghiệp, để khỏi uổng phí kiếp sanh ngắn ngủi may duyên gặp được Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Thánh Thất New South Wales, ngày 24 tháng Chạp năm Giáp Thìn
(dl. 23-01-2025)
Q. Đầu Tộc Đạo Sydney,
Hiền Tài Nguyễn Thành Nghiệp
|
BẢN SAO KÍNH GỞI: |
|
- VP Trấn Đạo Úc Châu.
- Bàn Cai Quản Sở Phước Thiện và ĐTPM/NSW.
- Bàn Trị Sự các Hương Đạo:
Canterbury, Fairfield, Bankstown, Đường Nhơn
"Để kính tường" |
|

Thư Mời Tham Dự Lễ Khởi Công Xây Dựng Thánh Thất Tây-Úc

|

|
|
|
|
|
|
|
Giới thiệu Thơ Ái Nhân |
|
Tôi gặp gỡ Ái Nhân, sau khi rời Trại Tỵ Nạn Pulau Bidong (1982), một hòn đảo thuộc Malaysia, chuyển sang Trại chuyển Tiếp Sungei Besi, Thủ Đô Kuala Lumpur, để chờ làm thủ tục định cư ở nước thứ ba. Chúng tôi là người tỵ nạn, không thể sống được dưới chế độ Cộng Sản. Ái Nhân vượt biên trước, và chuyển trại trước. Vài câu trao đổi tâm tình, chúng tôi cảm thấy thân thiết ngay trong tình linh sơn huyết nhục trong suốt thời gian dài hơn bốn thập kỷ.
Ái Nhân thích làm thơ từ khi mài khố trong ngưỡng cửa Đại Học Cao Đài, học Đạo, củng cố niềm tin và hòa nhịp tim cùng hơi thở với bạn đạo từ vùng Thánh Địa. Nay, trong hoàn cảnh tỵ nạn, xa quê hương, xa Tổ Đình thân yêu, nguồn thơ ấp ủ càng sống dậy, càng ngập tràn lai láng như dòng suối mát vô thường bất tận, tiếng thơ phản ảnh hơi thở của tâm hồn con người vốn dĩ trầm lặng, khép kín mà rung động mãnh liệt. Người xưa thường nói "Văn dĩ tải đạo, thi dĩ ngôn chí" (nhà thơ dùng văn chương để nói lên đạo lý, thi ca nói lên cái chí). Ái Nhân cưu mang tư tưởng đó.
Nể tình người bạn vong niên, Ái Nhân trao cho tôi tập bản thảo "Ái Nhân Thi Tập". Tập thơ dày 982 trang, gồm 1039 bài thơ. Tôi đọc, chia sẻ và cùng lang thang trên những chặng "Đường trần gió bụi" của kiếp sống con người, mà "Nhớ đến non Tiên, nguồn cội".
Dõi bước theo Ái Nhân, từ Pulau Bidong (Malaysia) đến ngọn đồi Maryknoll, Mildura (Victoria, Úc), Wollonggong, về Dee Why, sang vùng Geraldton (Tây Úc), trở về bờ hồ Narrabeen (NSW), rồi trở lại bờ biển Dee Why (Sydney), cuối cùng dừng chân nơi quán trọ Georges Hall với biết bao nguồn cảm hứng dạt dào, bất tận.
Các sáng tác của Ái Nhân, ngoài những nét đặc thù cá biệt siêu thoát, diễn đạt qua trải nghiệm của cuộc sống bản thân do hứng cảnh sinh tình, qua nhiều giai đoạn trong kiếp sống vô thường: tu thân, nhớ về nguồn cội, nhớ chư Tiền Khai, nhớ Hội Thánh, Tam Đài, nhớ quê xưa, song thân, bằng hữu,... với mong mỏi "Mỗi kiếp gắng tu cho đắc quả, Sóng trần mờ mịt khá lo lường." (ANTT, Tr.33, bs.29. Trường Thi. 23-3-1982).
Trong vườn thơ Bạch Liên, Bản Tin Hòa Hiệp và Facebook, người thơ cống hiến nhiều hương sắc đa dạng về hình thức và nội dung một cách khiêm nhường. Ai lắng tâm nhìn mới thấy, ngửi mới cảm thông, tư duy mới hình dung được.
Thể thơ với nhiều hình thức, nhịp điệu từ Đường thi, Liên phong, Tứ tuyệt, Phú, Vịnh, Song Thất Lục Bát, v.v...
Tôi không phải là nhà thơ, nhưng thích thơ Ái Nhân. Thiết nghĩ với ngần ấy suy tư được diễn đạt qua ngòi bút của thi nhân khá phong phú và hàm súc triết lý Đạo, Đời, không thể không chia sẻ với quí bạn hữu bốn phương và trân trọng giới thiệu "Ái Nhân Thi Tập" với quí Thi hữu Cao Đài.
Hiền Tài Nguyễn Thành Nghiệp
(Thánh Thất New South Wales) |
|
|
|
|
|
|
AN NHÀN LỘ |
|
|
Đi qua gần hết kiếp trần,
Theo chân Từ Phụ chơn thần hườn nguyên.
Đầu năm cơn mưa Hạ,
Vạn vật đón tân niên.
Hỏi rằng: Ai mở cửa Huyền Linh ?
Nghịch cảnh khó khăn giữ được mình.
Mấy nẻo truân chuyên nơi quán tục,
Hạnh hiền hạt Đức khá đinh ninh.
Cành Thu lá rụng rơi về cội,
Nắng ấm vườn Xuân một khối tình.
Nhìn lại cảnh trần như giấc mộng,
Niệm danh Từ Phụ mở chơn Kinh.
Georges Hall mùa Xuân, ngày 25-10-2023
Ái Nhân |
|
|
|
|
|
|
|
CHƠN TRUYỀN |
|
|
Gập ghềnh gió bụi chông gai,
Đi xa mới biết đường dài khó khăn.
Khách trần qua tấm lịch,
Khó thấy đúng chơn truyền.
Chơn truyền Hội Thánh. - Một con thuyền,
Đem gởi người hiền thật hữu duyên.
Đại Đức, đại từ, tâm đại giác,
Khuôn Thiêng khai trí tạo dân quyền.
Biển mê sóng dữ trêu phàm Thánh,
Khảo thí Hạnh Đường thất ức niên.
Thi đỗ trường tu không phải dễ,
Thầy gieo Thánh chất ở tâm điền. (*)
Hỡi ai là bậc lương sanh!
Bundaberg QLD Tiết Trọng Hạ, ngày 04-01-2024
Ái Nhân
(*) Tâm điền: Ruộng tâm. Tấm lòng lai láng chứa chan tình cảm thương yêu của con người. |
|
|
|
|
|
|
KHIẾT DÂN |
|
|
Nguyễn đường cứu khổ độ nhơn sanh,
Đức trọng tình cao dạ chí thành.
Hòa ái vạn linh đời vẫn nhắc,
Khiết Dân tròn Đạo hạnh tinh anh.
Anh linh thoát tục siêu phàm,
Phạm Môn lập nghiệp khổ cam chí từ...
Đồi Maryknoll Victoria, 22-02-1983
Ái Nhân |
.jpg)
|
Riêng kính tặng Ông Út. Đạo Nhơn Nguyễn Đức Hòa (1915-1993) |
|
LỜI CỦA NGƯỜI VIẾT:
Tiếng Ve kêu thắt dạ,
Chạnh nhớ cội nguồn xưa!
Mùa Hè Miệt Dưới, nhân ngày đầu năm đọc lại bài thơ 42 năm về trước. Trong lòng nghĩ về ông Út, Đạo Nhơn Nguyễn Đức Hòa.
Anh linh thoát tục siêu phàm,
Phạm Môn lập nghiệp khổ cam chí từ...
Hai câu thơ lục bát trong bài thơ tựa đề: “Khiết Dân” ghi trên. Đó là lời trang trọng dành cho một bậc chơn tu đi trên con đường Đạo của THẦY.
Lời trang trọng đó! Để nhớ về một người mà tôi may duyên Tri ngộ, khi tôi còn đi học tại trường Đạo Đức Học Đường, trong nội ô Tòa Thánh. Ngoài giờ học, tôi thường hay ghé vào nhà nghỉ chức sắc Phước Thiện, trò chuyện với ông Út.
Đời sống của ông là một cảnh thanh bần tương rau đạm bạc. Tánh tình chơn thật, ông không nhận ơn người khác ban cho, không vướng bận với của cải vật chất phù du, lại càng lánh xa danh lợi. Cách ăn ở đơn giản bình dị.
Tôi rất kính trọng phong cách sống đơn sơ đó! Vì nó luôn nhắc nhở về đức hạnh và lòng từ bi, cho một người hành giả trên con đường tu giải thoát.
Ông Út, hiến thân vào cửa Đạo xây dựng đại nghiệp thiêng liêng. Đi trên con đường hành Đạo phụng sự nhơn sanh. Ông là một người sống có tinh thần trách nhiệm và lúc nào cũng làm tròn bổn phận của một người chức sắc Thiên phong. Bảo thủ chơn truyền, thực hành câu “Minh Thệ”.
Ông là một nhà chơn tu đối nhân xử thế khiêm cung từ ái. Không cột chân vào chốn thị phi. Ông lúc nào cũng khắc tạc vào lòng lời dạy của Đức Hộ Pháp “Thập Điều Gới Răn”.
Ông để lại một di sản hiền lương bên dòng Đạo sử. Hậu thế sẽ nhớ ơn ông.
Xin đa tạ ân tình chỉ dạy trong một kiếp hữu duy-ên Tri ngộ. Dù rất ngắn nơi cõi trăm năm. Nhớ cố nhân!
Tấm gương Đạo Đức ngàn thu.
Thảo Vân Trang Goerges Hall, ngày 08-01-2025
Ái Nhân
Cẩn bút |
|
|
|
|
|
|
|
ĐƯỜNG XA |
|
|
|
Nhìn ra thế giới bên ngoài,
Vui trong cảnh trí mỗi ngày học thêm.
Nhàn bước đường mây. - Xa thật xa,
Thiên nhiên cây cỏ sống chung nhà.
Không phân cao thấp đường luân chuyển,
Vẫn một màu chơn với vị tha.
Đất rộng bao dung, khuôn luật Tạo,
Trời cao quảng đại, mở tâm hòa.
Cõi trần tầm Đạo muôn điều khó,
Vững lái thuyền từ cố gắng qua.
Đi cuối đường Hiền rất khó khăn,
Ngàn năm nhơn loại nhọc vai oằn.
Nhân luân Đạo Đức, sao tròn nghĩa?
Biết nghĩ đến người, chử dạ răn.
Nỗi cảnh nghiệp duyên ai rõ thấu?
Ruộng tâm mầu mở hoặc khô cằn.
Làm sao biết được tiền căn đó!
Đường Đạo cơ mầu. - Thật khó khăn.
Hỡi ai là khách tri âm!.
Rockhampton QLD Tiết Trọng Hạ.
Ngày 04-01-2024
Ái Nhân |
|
|
|
|
|
|
BA MƯƠI TẾT |
|
|
Ba mươi chưa hẳn Tết về,
Một hai ba đếm tứ bề pháo hoa.
Cùng nâng ly rượu Xuân ca,
Chúc nhau năm mới đậm đà niềm vui.
Hạnh phúc tay bắt môi cười,
Thêm một tuổi Đạo lẫn Đời an nhiên.
Yêu thương lan tỏa khắp miền,
Xuân vui Ất Tỵ bội duyên Cao Đài.
Mỹ Phượng nay kính
Tuesday, 31/12/2024 |
|
|
|
|
|
|
|
|
ƠN TRỜI |
|
|
|
Một đời lẽ sống thanh bần,
Ở nơi cõi tạm giữ thân phận người.
Đầu năm cơn mưa Hạ,
Vạn vật đón tân niên.
Nguồn cội xa xăm khắc khoải nhìn,
Ơn Trời dưỡng dục một chơn linh.
Ngàn năm tấn hóa qua nhiều kiếp,
Bổn Đức nguyên căn Phật tánh gìn.
Cửa Đạo hằng quen đường chí thiện,
Khiêm cung từ ái hạnh tâm minh.
Cõi trần dầu đến thương Từ Phụ,
Tạo Hóa vô hình. – Một khối linh
Brisbane QLD Tiết Trọng Hạ, ngày 01-01-2024
Ái Nhân |
|
|
|
|
|
|
XUÂN ẤT TỴ |
|
|
Hỏi Nắng bao Sương đẹp ý vàng,
Vui hòa gió hát khúc Xuân sang.
Chia đều mấy nhánh Mai tầm Nụ,
Kẽo kẹt dòng Đời tiếng võng vang.
Một tuổi vun thêm tròn gốc Đạo,
Cao Xanh Phước Lộc rưới Trần ngàn.
Đuôi Rồng khuất ẩn sau rèm Núi,
Rắn ngẩng đầu cười Phúc Hỷ trang.
Mỹ Phượng nay kính
Friday 8:08 am 13/12/2024 |
|
|
|
|
|
|
|
TÂM |
|
|
|
Vạn vật càn khôn Tạo Hóa sinh,
Đức nguyên hằng vẹn nắm khuôn Linh.
Vườn Tâm vun quén Tâm về cội,
Tâm Đạo siêu phàm diệt nhục vinh.
Trăm ngọn gió trần chẳng nhiễm tâm,
Hiệp quyền Tạo Hóa vững thanh tâm.
Giả chơn cõi thế tâm không động,
Đi ở chuyện thường chuyển hóa tâm.
Miền trần bao kiếp cảm linh tâm,
Thuyền vững cho dù bảo táp tâm.
Đại tịnh tâm sinh miền lạc cảnh,
Nhân Thiên hiệp nhứt cộng hòa tâm.
Thương sinh tâm động lại mòn tâm,
Một thoáng phù sinh thức giác tâm.
Ánh Đạo soi đường nung Thánh chất,
Trường đời trui luyện rửa phàm tâm.
Tâm thành chí thiện Đức Chân Tâm,
Tâm đạt trọn lành khải huệ tâm.
Tâm tiếp điễn Thiên hòa vũ trụ,
Hiệp đồng vạn loại trải Từ tâm.
Úc quốc thảo xá ngày mùng 1 tháng giêng năm Mậu Thìn (DL 17-02-1988)
Ái Nhân
TB: Bài thơ nầy đã gởi tặng GS Lê Tuyên (nguyên GS Trường Đại Học Văn khoa, viện Đại Học Huế mùa Thu 1957) nhân ngày Tết năm Mậu Thìn (1988). |
NGUỒN TÂM
LỜI CỦA NGƯỜI VIẾT:
.jpg) |
Chữ Tâm ý Đạo Huyền vi,
Là đèn Trí Huệ bước đi Khổ Hiền.
Bài thơ ba sáu năm liền,
Vẫn theo bước Đạo niềm riêng khách trần.
Tuổi Thu bóng ngả bên sân,
Rừng tòng tĩnh lặng về lần chơn tâm.
Bến trần cuối nẻo xa xăm,
Lòng ta, ta biết, thuyền tâm của mình.
Thánh tâm nguồn Đức Chí Linh,
Trời ban hạt giống Vạn Linh giữ gìn.
Cửa tu mong sống chí tình... |
Bài thơ viết gần ba mươi sáu năm vào ngày Tết năm Mậu Thìn (1988). Văn phong đó đã đi theo tôi hết chặng đường đời. Một đời tu học mà vẫn chưa học hết chữ Tâm.
Thánh Tâm huyền diệu của Thầy, là sự thương yêu hằng sống.
Xin yết lại bài thơ cũ của năm xưa, để nhớ về chặng đường đã đi qua trên con đường Đạo của Thầy. Lắm nhiều gian nan trong một giai đoạn lịch sử. Thuyền Đạo trôi theo vận nước mịt ngàn phương.
Thảo Vân Trang mùa Xuân ngày 04-09-2024
Ái Nhân |
|
|
|
|
|
|

Ái Nhân
VĂN NHẠC HÒA CHƠN
Đường Tu cổi bỏ kiếp trần,
Phạm môn cảnh thật gởi thân khổ hiền.
Văn phong Khúc ái khối tình thanh,
Nhạc Đạo Tâm chơn Đức trọn lành.
Hòa điễn Từ ân khai trí giác,
Chơn như Huệ tánh mở thương sanh.
Nguồn Tiên Ngự đảnh Thần ngôi cũ,
Đạo Thánh Thuyền đưa rước kẻ thành.
Đức Tạo Linh quang gìn vạn loại,
Quyền năng đắc pháp rạng tinh anh. |
VĂN
NHẠC
HÒA
CHƠN
NGUỒN
ĐẠO
ĐỨC |
|
|
KHÚC
TÂM
TỪ
HUỆ
NGỰ
THUYỀN
LINH |
Thảo xá miền Úc quốc mùa Đông.
Ngày 02-08-2007
Ái Nhân. |
MỞ TRANG THƠ CŨ NĂM XƯA!
Bài thơ viết vào mùa Đông của 17 năm về trước.
- VĂN NHẠC HÒA CHƠN NGUỒN ĐẠO ĐỨC.
- KHÚC TÂM TỪ HUỆ NGỰ THUYỀN LINH.
Nền văn hóa âm nhạc chơn thật là nguồn cội Đạo Đức của Thầy.
Nhạc Thánh Đường là khúc nhạc từ Tâm, là lòng từ bi nhân ái, con thuyền Chí Linh Tạo Hóa.
Văn nhạc là ngôn ngữ từ trái tim, từ đáy lòng của con người. Văn nhạc hiền lương thanh cao siêu thoát, dành để hiến lễ cho hai Đấng Phụ Mẫu thiêng liêng, trong các kỳ Đàn lễ “Nhạc Tấu Quân Thiên”. (1)
Bà Bát Nương rất quan tâm về văn nhạc. Năm Tân Mùi (1931) Bà dạy Ngài Bảo Văn Pháp Quân Cao Quỳnh Diêu về Nhạc. (2)
Văn nhạc rất quan trọng trong nền Đạo Cao Đài.
Văn phong Lễ Nhạc ơn Trời,
Con thuyền tận độ cho người thiện duyên.
Georges Hall mùa Đông, ngày 02-08-2024
Ái Nhân
GHI CHÚ: Bài thơ được viết theo thể điệu phú đắc và điệu đối khoán thủ.
Đối khoán thủ: Trong một câu thơ, chữ thứ nhất và chữ thứ ba, từ C1 đến C7 là một cặp câu đối.
LỜI CỦA NGƯỜI VIẾT:
Đức Nguyên là một nhà biên khảo rất nghiêm túc và có trách nhiệm về những điều mình viết. Anh trình bày các khảo luận và dẫn dắt người đọc dễ nhận ra vấn đề mà mình muốn đi tìm để hiểu biết về Đạo học. Cách hướng dẫn của anh mạch lạc về văn học và hàm chứa nhiều ý nghĩa về Đạo học.
Sở dĩ tôi chọn cách lý luận giải nghĩa về “Nhạc Tấu Quân Thiên” của anh. Vì nó đã cho tôi hiểu rõ hơn trên phương diện văn học nghệ thuật, cùng Đạo lý tôn giáo đầy thuyết phục.
Anh để lại một di sản rất lớn nhiều giá trị trong nền văn học sử Cao Đài. Hậu thế sẽ nhớ ơn anh.
Nền Đạo Cao Đài cần phải có một Viện HÀN LÂM nơi mà Thập Nhị Bảo Quân làm việc để giúp Hội Thánh Lưỡng Đài về mặt chuyên môn. Thí dụ như:
- VĂN HỌC: Hiệu đính lại Kinh sách về chánh tả văn phạm một cách hoàn mỹ hơn.
- GIÁO DỤC: Hoạch định chánh sách giáo dục. Mở trường đào tạo chức sắc có đủ đức hạnh và tài năng. Tốt nghiệp khoa trường mới lãnh lịnh Hội Thánh đi hành đạo địa phương. Chức sắc là người đại diện cho Hội Thánh nhứt luật thi hành.
Đó là con đường rất dài của Hội Thánh trong tương lai phải nghĩ đến.
Georges Hall mùa Hè, ngày 07-01-2025
Ái Nhân
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
NHỮNG LỐI THƠ ĐƯỜNG LUẬT ĐẶC BIỆT:
1. Khoán thủ Khoán là giao ước, thủ là đầu. Khoán thủ là bài thơ với giao ước là lấy chữ đầu mỗi câu làm ý chánh.
9. Điệu phú đắc: Trong thơ Thất ngôn bát cú, khó làm nhứt là Điệu phú đắc, nghĩa là: đầu đề bài thơ được ra bằng một câu ca dao, mà trong cặp trạng và cặp luận, phải tránh dùng những chữ trong câu ca dao ấy, còn phá thừa và thúc kết thì không cần tránh.
CAO ÐÀI TỪ ÐIỂN Q.3 VẦN TH / SOẠN GIẢ : ÐỨC NGUYÊN
https://caodaiebook.net/CaoDaiTuDien(v2012)/cdtd-van_TH.htm#Tho_Duong_luat_09_LoiThuDacBiet
(1) Nhạc tấu Quân Thiên
樂奏鈞天
Nhạc: Âm nhạc, âm thanh có tiết tấu hòa nhau nghe êm tai, để nói lên một ý nghĩa. Tấu: khởi lên. Quân: cái bàn xoay của người thợ nặn đồ gốm. Thiên: Trời. Quân Thiên: chỉ Đấng Thượng Đế tạo hóa ra càn khôn vũ trụ và vạn vật.
Nhạc tấu Quân Thiên là những khúc nhạc tấu lên để hiến lễ Đức Chí Tôn.”
CAO ÐÀI TỪ ÐIỂN Q.2 VẦN NH SOẠN GIẢ : ÐỨC NGUYÊN
https://caodaiebook.net/CaoDaiTuDien(v2012)/cdtd-van_NH.htm#Nhac_tau_Quan_Thien
(2) Bà Bát Nương dạy về nhạc năm Tân Mùi (1931).
Thánh giáo ngày 28-5-Tân Mùi (dl.13-7-1931): Bát Nương dạy Ngài Bảo Văn Pháp Quân Cao Quỳnh Diêu về Nhạc. [Đạo Sử Nhật Ký quyển 1 do Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng biên soạn 2004.]
|

Trần Ngọc Điệp
Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa lai.
(Mãn Giác Thiền Sư)
Xuân đi rồi lại đến như hoa tàn rồi hoa lại nở như một trạng thái tuần hoàn bất biến của Vũ Trụ. Như con người sinh ra, lớn lên, rồi chết. Hình thể chỉ là sắc tướng, chỉ là phù du rồi cũng mất đi chỉ còn Linh Hồn. Chúng ta nuôi dưỡng linh hồn được trọn lành vì linh hồn cũng bất biến và chúng ta cũng chào đón xuân bằng sự hoan hỷ vậy.
Như một truyền thống văn hóa vĩnh cửu của người Việt Nam, Xuân mới như một niềm tin, một hy vọng cho gia đình, cho những bạn bè thân thuộc và cho cả mọi người một niềm tin hoan lạc, thành công và bình an trong cuộc sống.
“Xuân đến với đời, đời hạnh phúc
Xuân lai cõi tục, tục vui mừng”.
(Đức Thượng Trung Nhựt)
Đón xuân ngoài việc mua sắm những vật dụng mới cần thiết cho các cơ sở Thờ Phượng chung trong cộng đồng hay cho gia đình như sơn sửa trang trí như thêm đôi liễn , thêm cành hoa đào hoa mai v.v.. thì việc chuẩn bị các Bàn Thờ và việc cúng kiến trong các ngày xuân cũng quan trọng và không thể thiếu sót vì “Kính là Tinh Thần của Lễ” vậy.
Trong việc cúng kiến, ngoài các Lễ Phẩm nhất định phải có như hoa quả, rượu trà, bánh mứt v.v… thì việc cúng cơm và thực phẩm trên các Bàn Thờ cũng quan trọng không kém.
Gạo- Cơm là lương thực chính trong bửa ăn của phần nhiều người dân các nước Đông- Nam- Á nói chung và của người Việt- Nam nói riêng, vì vậy trên các mâm cúng phải có cơm là vậy.
PHẦN CÚNG CƠM
1/ CÚNG THỰC PHẨM CHAY.
- Ngũ Cốc: thuộc Dương, nuôi dưỡng tinh thần, thể xác. Sự sinh trưởng vạn vật. Bảo tồn cơ sanh hoá.
- Cá, Thịt thuộc Âm.
2/ BÀN THỜ ĐẤT ĐAI
“ Đất có Thổ Công, sông có Hà Bá”. Theo người xưa mỗi khu đất đều có một vị Thần cai quản, gọi là Thổ Công hay Thổ Địa. Vì vậy vào dịp lễ đầu năm, cuối năm hoặc khi có cúng kiến, hay động thổ như sửa sang nhà cửa v.v…đều có thiết lễ phẩm để tạ ơn và cầu xin điều tốt lành, gọi là cúng Đất Đai.
- Đất Đai Là nơi mình quản nhiệm, nhỏ là nhà của mình, còn lớn là Đình Làng v.v…
- Có lễ cúng là phải cúng Đất Đai trước. Đất là đất có ranh giới. Đai là vành đai. Tức là khuôn viên mình quản nhiệm
- Cúng năm chén cơm. Có đơm cơm vào chén.
- Có nghĩa: Là cúng ngũ phương, Đông, Tây Nam, Bắc và Trung ương.
- Là cúng các vị Thần vận hành Ngũ Hành gồm Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Cầu xin các vị tạo Sinh Khí, ban Ngũ Phúc gồm Phú, Quý, Thọ, Khương, Ninh cho các thành viên, dân chúng trong khu vực sở tại, hoặc cho gia chủ.
- Năm chén cơm sắp theo thứ tự như sau:
3/ BÀN THỜ CỬU HUYỀN THẤT TỔ
Có các khuynh hướng sau:
a- Cúng sáu chén cơm. Có ý nghĩa cúng Lục Thân gồm Phụ, Mẫu, Huynh, Đệ, Thê (Phu), Tử.
Cũng có ý nghĩa mong mỏi Lục Hoà cho thân tộc. Thân hòa, Khẩu hòa, Ý hòa, Kiến hòa, Lợi hòa, Giới hòa.
b- Cúng bốn chén cơm. Vì theo dân gian là cúng Ông Bà Tổ Tiên, mà gọi là Ông Bà thì có bên Nội và bên Ngoại, nghĩa là hai Ông và hai Bà, tổng cộng là bốn nên cúng bốn chén cơm. Cũng có nghĩa bốn phương.
c- Cúng tám chén cơm với ý nghĩa tám hướng.
4/ BÀN THỜ VONG NAM, VONG NỮ.
- Cúng bốn chén cơm. Với ý nghĩa cho các Vong Linh bốn hướng Đông, Tây, Nam, Bắc về hưởng lễ phẩm.
5/ CÚNG VONG PHÀM TẠI LINH SÀNG
a/ Cúng ba Chén cơm:
- Chén giữa đầy vun, tượng trưng cho Dương. Hai chén hai bên lưng nửa chén, tượng trưng cho Âm.
b/ Ba chén cơm hợp lại có ý nghĩa:
- Số ba là Tam Tài “ Thiên Địa Nhơn”
- Thiên là Trời cho ta sự sống. Địa là Đất trồng ra lúa gạo. Nhân là Người nhờ vào lúa gạo nuôi dưỡng xác phàm. Lúc nào cũng tương liên mật thiết với nhau.
c/ Bốn chiếc đũa:
- Chén giữa hai chiếc đũa
- Hai chén hai bên chỉ một chiếc đũa.
- Tượng trưng bốn hướng Đông Tây Nam Bắc.
- Hai chiếc giữa là một đôi, có nghĩa Âm Dương tương hiệp.
- Mỗi bên một chiếc có nghĩa Âm, Dương.
6/ LỄ VẬT CÚNG
Lễ vật để cúng không bắt buộc phải theo khuôn khổ nào cả. Tuỳ theo địa phương, tùy theo hoàn cảnh kinh tế. Tuy nhiên Cơm là lễ vật bắt buộc không thể thiếu trong các mâm cúng.
Xin phép mượn hai câu thi của “Đức Đông Phương Lão Tổ” để kết thúc bài sưu tầm này.
“ Xuân là Đạo, Đạo Trời ban phát,
Đạo là Xuân, Xuân lạc thiên nhiên”.
* Bài Sưu Tầm
Nguồn:
- Tự Điển Phật Học online.
- Nhịp Cầu Giáo Lý (CĐ)
- Hồ Nhật Quang / Văn Hoá Nam Bộ).
- Sự góp ý của vài Đạo Huynh ở VN.
* Vì sự hạn hẹp Tài Liệu nên bài viết còn nhiều thiếu sót, và chỉ có tính nghiên cứu. Xin Chư HTĐM thứ lỗi, nếu Chư Hiền có tài liệu của Hội Thánh xin chỉ giáo thêm.
|

NGÀY TẾT KỂ CHUYỆN VỀ TÁO QUÂN |
|
Mộc Lan Cao Đài

NGÀY TẾT KỂ CHUYỆN VỀ TÁO QUÂN
Táo Quân là vua bếp là các thần cai quản việc bếp núc trong gia đình.
Truyền thuyết kể rằng:
Ngày xưa có đôi vợ chồng không con sống chung có đôi lúc buồn phiền canh cải không vui, chồng tên là Trọng Cao, vợ tên là Thị Nhi.
Không mai có một buổi nọ Trọng Cao lở tay đánh vợ là Thị Nhi nàng buồn bỏ nhà ra đi, sau đó nàng gặp Phạm Lang thấy chàng là người hiền đức lời lẻ khéo léo nên bằng lòng làm vợ chàng.
Trọng Cao khi vợ bỏ nhà ra đi thì chàng thấy hối hận nên khăn gói lên đường tìm nàng, tìm khắp chốn cho tới thân tàn túi hết bạc, cho nên mới vào nhà dân bèn xin ăn.
Nhưng không ngờ người chủ nhà là Thị Nhi vợ của chàng, Thị Nhi sau khi hiểu rõ nguyên nhân vì sao Trọng Cao ra thế thì mới mời vào nhà.
Bỗng Thị Nhi nghe tiếng Phạm Lang về, sợ chàng hiểu lầm nên bảo Trọng Cao ẩn vào đống rơm ngoài vườn.
Phạm Lang vào nhà chợt nhớ ngày mai cần tro để bón ruộng, Phạm Lang ra châm lửa đốt rơm, Trọng Cao bị chết cháy trong đống rơm, Thị Nhi đau đớn quá cũng chạy vào chết theo.
Phạm Lang thấy tình cảnh quá bi thương nên cũng nhảy vào chết theo vợ.
Khi cả 3 được đưa về chầu Đức Thượng Đế được nghe kể lại sự tình, Thượng Đế xét thấy 3 người đều có nghĩa, nên sắc phong cho 3 người đều làm Táo Quân.
Phạm lang làm Thổ Công trông nom việc bếp.
Trọng Cao làm Thổ Địa trông coi việc nhà cửa.
Thị Nhi làm Thổ Kỳ trông coi việc chợ búa.
Và mỗi vị đều có danh hiệu riêng.
Thổ Công có danh hiệu: ĐÔNG TRÙ TƯ MỆNH TÁO PHỦ THẦN QUÂN.
Thổ Địa có danh hiệu: THỔ ĐỊA LONG MẠCH TÔN THẦN.
Thổ Kỳ có danh hiệu: NGŨ PHƯƠNG NGŨ THỒ PHÚC ĐỨC CHÁNH THẦN.
Theo tục lệ người Việt Nam, hằng năm vào ngày 23 tháng chạp nhà nhà đều thiết lễ một mâm lễ cúng đặc ở ngoài sân với hương đăng, hoa trà quả bánh và rượu chi nghi thành tâm hiến lễ đưa 3 vị Táo Quân về chầu Trời.
Tới thời kỳ Đạo Cao Đài khai mở thì đã được chỉnh đốn lại tục lệ gọi là lễ đưa chư Thánh Triều Thiên, trong đó bao gồm cả Thần Thánh Tiên Phật. [Trích lược từ CAO ĐÀI TỪ ĐIỂN "Sự tích Táo Quân ở Việt Nam"].

NÓI VỀ NGÀY VÍA
Vía là gì?
Vía là ngày lễ kỷ niệm giáng sanh của các Đấng.
Vía Đức Thái Thượng Lão Quân vào ngày 15/2 âl.
Vía Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vào ngày: 19/2 âl.
Vía Đức Phật Thích Ca vào ngày 8/4 âl.
Vía Đức Khổng Thánh vào ngày 27/8 âl.
Vía Đức Chúa Jesus vào ngày 25/12 dl.
Vía Nguyệt Tâm Chơn Nhơn vào ngày 22/5 dl.
Đặc biệt có 2 ngày Vía mà nhiều người thắc mắc vì Ngài không có giáng sanh sao lại có ngày vía?
1- Vía Đức Phật Mẫu vào ngày rằm tháng 8 âl.
Bởi vì lấy sự tích Phật Mẫu Diêu Trì giáng hạ xuống hoa điện của Vua Hớn Võ Đế để chứng lễ khánh thọ lục tuần của của Ngài vào đêm rằm trung thu.
Trường hợp thứ hai là vào đêm 14 rạng mặt rằm tháng 8 âl năm Ất Sửu (dl. 2-10-1925) vào giờ Tý, theo lịnh của Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu cùng Cửu Vị Tiên Nương giáng xuống tư gia của Ngài Cao Quỳnh Cư ở đường Bourdais quận 1 Sài Gòn theo lời thỉnh cầu chân thành của 3 Vị: Phạm Công Tắc, Cao Quỳnh Cư và Cao Hoài Sang.
2- Vía Đức Chí Tôn vào ngày mùng 9 tháng Giêng.
Được chọn vào ngày này là do căn cứ theo dịch số.
Số 1 là số khởi đầu của các con số, nó lại là số tùng dương, cho nên chọn tháng Vía Đức Chí Tôn là tháng 1 là khởi đầu một năm.
Số 9 là con số thành sau cùng của các con số dương, vì vậy số 1 là dương khởi đầu nên được chọn làm tháng, số 9 là số thành thuần dương nên chọn làm ngày.

SỰ KHÁC NHAU GIỮA TRÍ HUỆ VÀ TRÍ THỨC
Trí huệ là sự hiểu biết thông suốt của bậc chơn tu đắc đạo.
Trí huệ đối nghịch với phiền não, trí huệ được sánh như ánh sáng đèn, phiền não được sánh như bóng tối, hễ có ánh sáng đèn thì bóng tối sẽ biến mất.
Trí thức do sự học hỏi và kinh nghiệm mà hiểu biết, hoạt bát trong sự luận đàm, có tài biện luận.
Người có trí huệ rất điềm tỉnh trong sự thị phi.
Người trí thức sẽ tìm cách hùng biện trong sự thị phi.
Huệ Năng là người trí huệ.
Thần Tú là người trí thức.

VÌ SAO CHÚNG TA PHẢI TU
"Trần là cõi khổ, để đọa bậc Thánh, Tiên có lầm lỗi. Ấy là cảnh sầu để trả xong quả, hoặc về ngôi cũ, hoặc trả không xong quả, phải mất cả chơn linh là luân hồi, nên kẻ bị đọa trần gọi là khách trần." (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển Q.2, bài 1)
Mỗi bậc phẩm đến thế nầy đều được đấng cầm quyền thế giái ban cho một VAI TUỒNG, dầu thanh cao, dầu hèn hạ, cũng phải ráng làm cho tròn trách nhiệm, đặng đến lúc hồn qui thiên ngoại ĐẾN NƠI KHỞI HÀNH MÀ PHỤC HỒI CÔNG CÁN.
Ai giữ trọn bậc phẩm thì sẽ được ĐƯA LÊN CAO HƠN nơi địa cầu 68 này, ai chẳng giử trọn bậc phẩm thì sẽ bị đày vào nơi U MINH ĐỊA để trả cho xong CĂN XƯA QUẢ CỦ, cho đến lúc trở về nẽo chánh đường ngay mà phục hồi ngôi củ.
Bằng chẳng biết sửa mình thì luật Thiên điều chồng chập, khổ A TỲ phải vuớng muôn muôn đời đời mà ĐỀN TỘI ÁC. Bậc NHƠN SANH VÌ LẼ ĐÓ mà phải chịu thiên niên chìm đắm vào SỐ LUÂN HỒI căn quả chẳng bao giờ tiêu đặng.
Các Bậc THẦN, THÁNH, nếu không biết MỐI ĐẠO là phương châm tìm nguồn trong rửa bợn tục thì BIỂN TRẦN KHỔ NÀY cũng khó mong thoát đặng.
THI:
Dẫu biết rằng trần gian là cõi tạm,
Ta vẫn vui trong kiếp sống vô thường .
Đường ta đi dù ngập lối phong sương,
Nếu giác ngộ là thiên đường hạnh phúc. |
Mộc Lan Cao Đài
Cẩn bút 10-1-2025
|

Uyên Trang phụ trách
Ớt Chuông Nhồi Chay
t chuông nhồi chay với trong nước sốt cà chua thơm ngon là món ăn không thể thiếu trong thực đơn món chay.
Nào cùng vào bếp với Uyên nhé.
Nguyên liệu: làm món ớt chuông nhồi chay (khẩu phần: 2 người).
 |
• 2 quả ớt chuông đỏ.
• 1 quả zucchini cỡ vừa.
• 4 quả cà chua.
• 8 quả ô liu (tùy chọn).
• 1 củ hành tây.
• 1 tép tỏi.
• 1 viên phô mai mozzarella ít béo.
• ½ chén húng quế, tươi.
• 2 muỗng cà phê dầu ô liu.
• ½ muỗng cà phê muối salt.
• ½ muỗng cà phê tiêu.
• 1 muỗng canh hạt thông. |
|
Nguyên liệu nước sốt cà chua.
• 1 lon cà chua (400g sốt cà chua tươi).
• 1 muỗng cà phê đường.
• Muối và hạt tiêu cho vừa ăn.
• ½ chén húng quế, tươi.
Cách làm món ớt chuông nhồi chay thơm ngon dễ làm.
• Cắt phần đầu của ớt chuông, bỏ hạt và ruột. Cắt nhỏ zucchini, cà chua, ô liu, hành lá và tỏi. Cắt nhỏ phô mai mozzarella; giữ lại một nửa để làm lớp phủ.
• Trộn đều zucchini, cà chua, hành lá, phô mai mozzarella và hành lá với dầu ô liu. Thêm húng quế cắt nhỏ và muối tiêu. Cho hỗn hợp trở lại bên trong ớt chuông.
• Khi đầy, xếp lớp mozzarella còn lại lên trên. Rắc hạt thông lên trên.
• Nấu sôi nước sốt cà chua với húng quế, xếp ớt chuông vào chảo nước sốt, đến khi sôi thì tắt bếp. Cho vào lò nướng trong 30-40 phút ở nhiệt độ 200°C.
Lợi ích dinh dưỡng của món ớt chuông nhồi chay.
Ớt chuông có đầy đủ các vitamin như A, B và C. Bí ngòi và cà chua giàu kali, mangan, vitamin K và các lợi ích chống oxy hóa. Trong khi phô mai mozzarella, ô liu và hạt thông mang lại chất béo lành mạnh, protein hoàn chỉnh. Chính vì thế, món ớt chuông nhồi chay này làm một món chay ngon giàu dinh dưỡng và vô cùng dễ làm.
Chúc các bạn ăn ngon miệng nhé. ♬♬♬
|

Uyên Trang sưu tầm
Thức ăn và bác sĩ
Bác sĩ dặn bệnh nhân:
– Bà bị thiếu vitamin và chất xơ nghiêm trọng, cần ăn thật nhiều quả màu xanh, đỏ, và phải ăn cả vỏ không được gọt bỏ.
– Tôi xin ghi nhận lời khuyên của ông.
Đến hẹn khám lại, bác sĩ hỏi:
– Cách ăn hoa quả như vậy có ảnh hưởng gì không thưa bà?
– Thưa không! Đào, lê, táo, nho… đều được cả, chỉ có… quả dừa thì ăn hơi lâu.
Cậu sinh viên thật thà
Một cậu sinh viên năm nhất đại học đang bị chỉ trích nặng nề bởi giáo sư của mình.
“Bài của anh rất khó đọc“, giáo sư nói, “đáng lẽ ra anh phải viết làm sao cho người dốt nhất cũng có thể hiểu được mới phải.”
Cậu sinh viên từ tốn đáp: “Dạ thưa thầy, đoạn nào mà thầy không hiểu ạ?”
Đặt câu "đỡ đần"
Trong giờ học tiếng Việt, cô giáo yêu cầu học sinh đặt câu có từ "đỡ đần".
- Thưa cô dễ ợt - Tèo giơ tay xung phong - Vì em học ngu nên ba mẹ cho em đi học thêm để em đỡ đần ạ.
- Cô giáo: ?!
Quá lịch sự
Một phụ nữ bước lên xe buýt với dáng vẻ mệt mỏi. Ngay lúc đó, người đàn ông có tuổi đang ngồi ở ghế gần đấy đứng dậy. Cô này ấn vai ông ta xuống và nói:
- Ông cứ ngồi đi, tôi đứng được mà!
- Ở bến tiếp theo, ông kia lại bị ấn vai xuống cùng câu nói ấy. Đến bến thứ ba, mọi chuyện vẫn lặp lại. Lúc này, người đàn ông không chịu nổi đành khẩn khoản: Xin cô để cho tôi xuống. Cô đã làm tôi bị quá mắc hai bến rồi!
Sao còn chưa thả?
Thầy đồ gõ thước:
- Các em im lặng, im lặng đến độ các em có thể nghe thấy tiếng ruồi bay cho tôi!
- Tất cả nghe lời thầy, không dám nhúc nhích.
Hai phút trôi qua, bỗng Quỳnh lên tiếng: Dạ thưa thầy, sao nãy giờ thầy còn chưa thả ruồi ra!
|


Chủ trương của Bản Tin Hòa Hiệp
• Bản Tin Hòa Hiệp: Phổ biến tin tức Đạo sự gần xa; liên lạc, trao đổi kinh nghiệm hiểu biết; học hỏi, hợp tác thân hữu với các Tôn Giáo bạn, các Đoàn Thể xã hội, nhằm đáp ứng nhu cầu và mục tiêu hướng thượng, nhằm phục vụ không biên giới cho Đạo lẫn Đời.
• Bản Tin Hòa Hiệp: Xin đón nhận mọi ý kiến đóng góp xây dựng, bài vở với bất kỳ thể loại; ưu tiên trong lãnh vực biên khảo, nghiên cứu đạo giáo, triết học, khoa học kỹ thuật, văn học nghệ thuật phục vụ nhân sinh của chư vị thức giả đạo hữu, đạo tâm... miễn nội dung không nhằm mục đích: làm diễn đàn chính trị, bài kích cá nhân, tập thể; kỳ thị dưới mọi hình thức; gây chia rẽ nội bộ; đi ngược lại tôn chỉ, mục đích và đường lối của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Tòa Thánh Tây Ninh. |
|