B
1.- Ba là tiếng dùng để chỉ số đếm, đứng sau số hai. Như: Ba cây chụm lại nên hòn núi cao.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu dạy: Ðạo Trời khai ba lượt, người tục lỗi muôn phần.
Ðò đưa phút chịu vùi ba tấc,
Tay trắng phủi rồi một tuổi xuân.
(Đạo Sử).
Trước Ðiện lai rai ba chú Ðạo,
Sau hiên meo mốc mấy pho Kinh.
(Thơ Thượng Phẩm).
2.- Ba dùng để chỉ về thứ tự. Như: Anh ba, canh ba, hàng thứ ba, kỳ ba, lần ba.
Thánh giáo Thầy dạy về cách lạy có đoạn: Thầy lấy đức háo sanh mở Ðạo lần ba mà vớt kẻ hữu phần, tránh khỏi nơi buộc ràng khổ phạt.
Phước gặp Kỳ ba Trời dẫn độ,
Mau chơn rán lướt tới rừng thiền.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Nầy lúc Kỳ ba Phổ Ðộ trần,
Mau chơn thoát khỏi chốn mê tân.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
3.- Ba 波 là sóng, không dùng một mình.
Như: Ba đào sóng dậy, phong ba bão táp, chạy bôn ba khắp xứ.
a.- Ba là sóng to, đào là sóng nhỏ, ba đào dùng để chỉ về sự nguy hiểm.
Thành dạ tu tâm Thầy sửa số,
Ðem qua biển khổ chẳng ba đào.
(Đạo Sử).
b.- Phong ba là sóng và gió, chỉ những sự khó khăn, hiểm nghèo:
Phong ba mấy độ đà qua khỏi,
Ném thử Giáng Ma đóng Cửu tuyền.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
c.- Bôn ba dùng hình ảnh sóng nước chảy dập dồn để chỉ người di chuyển từ chỗ nầy đến chỗ nọ một cách khổ sở, vất vả.
Đã ngán bôn ba theo giả cuộc,
Âu đành mai một giữa thâm san.
(Thơ Thuần Đức).
4.- Ba 葩, như chữ “Hoa 花” là bông, chỉ sự tốt đẹp.
Tinh ba (hay tinh hoa) là chỗ thuần tuý tốt đẹp nhất của vật.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Ðức Hộ Pháp khi còn tại thế đã thường nhắc nhở cho Ðạo hữu phải giữ cho nguyên vẹn cái tinh thần tốt đẹp của phong hoá nước nhà, cái tinh ba của nền triết lý trong Ðạo Nhơn luân trót bốn ngàn năm do tổ tiên lưu lại.
Nâng đỡ Càn khôn há gọi già,
Thay quyền Nhựt nguyệt tạo tinh ba.
(Thơ Tiếp Đạo).
Ba cung sáu viện, bởi chữ “Tam cung lục viện 三 宮 六 院”, dùng để chỉ: Ba cung là ba toà nội cung dành cho Hoàng hậu và các Thứ phi, vợ của vua ở. Còn Lục viện, là nơi các cung nhân hầu hạ vua ở.
Ba cung sáu viện là những toà nhà ở nội cung dành cho vợ và các nàng hầu của vua ở.
Rèm lặng lẽ ba cung sáu viện,
Ánh đèn soi bẽn lẽn qua song.
(Phù Kiều Hận Sử).
Ba: Tiếng dùng để chỉ số đếm, đứng sau số hai. Chi 支: Nhánh, ngành.
1.- Ba chi đồng nghĩa với ba nhánh, chỉ về Tam Giáo: Phật giáo, Lão giáo, Nho giáo.
Xem: Ba nhánh.
Thầy nhập ba chi lại làm một là chủ ý quy tụ các con trong Ðạo Thầy lại một nhà, Thầy làm Cha chưởng quản, hiểu à!
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
2.- Ba chi còn dùng để chỉ ba phái của chức sắc Cửu Trùng Đài nam phái:
- Ngọc, mặc đạo phục màu đỏ, mão đỏ, còn gọi là phái Nho, phái Thánh.
- Thượng, mặc đạo phục mà xanh, mão xanh, còn gọi là phái Lão, phái Tiên.
- Thái, mặc đạo phục màu vàng, mão vàng, còn gọi là phái Thích, phái Phật.
Ba chi tuy khác chớ quyền lực như nhau.
(Pháp Chánh Truyền),
Ba bảy: Hai số đếm, chỉ nhiều lần. Chìm nổi: Ở sâu dưới hoặc nổi lên trên mặt nước.
Ba chìm bảy nổi là câu thành ngữ dùng để chỉ hoàn cảnh không may, gặp nhiều chuyện gian truân, vất vả phải chịu cực khổ như vật trôi lênh đênh trên mặt nước, khi chìm khi nổi bao phen.
Xem: Bảy nổi ba chìm.
Ba chìm bảy nổi, câu thành ngữ,
Chín được mười thua, chuyện tối thường.
(Thơ Thuần Đức).
波 濤
Ba: Sóng nhỏ. Đào: Sóng lớn.
Ba đào là sóng nhỏ và sóng lớn. Nghĩa bóng: Chỉ cảnh cực khổ, vất vả.
Điếu văn của Ngài Hiến Đạo, Đại diện Hội Thánh Hiệp Thiên Đài đọc trước Liên đài Đức Thượng Sanh có câu: Ðạo gặp phải cơn khảo đảo trầm trọng, khuynh nguy như con thuyền chơi vơi mặt biển, giữa sóng ba đào.
Rõ nỗi nhà thung gìn đức cả,
Nên toan tiếp trẻ khỏi ba đào.
(Đạo Sử).
Thành dạ tu tầm Thầy sửa số,
Ðem qua biển khổ chẳng ba đào.
(Đạo Sử).
Ba: Số tiếp theo của số hai trong số đếm. Đông 冬: Mùa cuối cùng trong bốn mùa.
Ba đông là ba mùa đông, ý chỉ ba năm, nghĩa giống như chữ ba xuân, ba thu.
Chín hạ chờ sương khô héo liễu,
Ba đông gội tuyết lạnh lùng mai.
(Thơ Thuần Đức).
Ba: Số tiếp theo của số hai trong số đếm. Giềng: Dây cái của lưới buộc phao hoặc chì, chỉ giềng mối.
Ba giềng, bởi chữ “Tam cương 三 綱”, tức ba giềng mối quan hệ của đạo làm người, đó là: Đạo vua tôi, đạo cha con, đạo chồng vợ, gọi là Tam cương (tam cang).
Xem: Tam cương.
Tu tâm sửa tánh ăn năn,
Ba giềng nắm chặt, năm hằng chớ lơi.
(Kinh Sám Hối).
Ba giềng với năm hằng khá đoán,
Hư nên đừng xao lãng chí nam nhi.
(Phương Tu Đại Đạo).
Bủa lưới bao trùm gồm bốn biển,
Giăng câu định hướng nắm ba giềng.
(Thơ Hiến Pháp).
1.- Ba: Số đếm, đứng trước bốn và sau hai. Kỳ 圻: Cõi, miền, hay vùng của một nước.
Ba kỳ, như chữ “Tam kỳ”, là ba cõi, ba miền của nước Việt Nam. Đó là Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ.
Ba kỳ con cháu Rồng Tiên ấy,
Nâng đỡ, thương nhau một tấc thành.
(Thơ Thuần Đức).
2.- Ba: Số đếm, đứng trước bốn và sau hai. Kỳ 期: Hạn, chỉ khoảng thời gian nhứt định nào đó.
Như: Mỗi tháng lãnh lương hai kỳ, Đại Hội Nhơn Sanh mỗi ba năm hội một kỳ.
Rung chuông tỉnh thế ba kỳ thức,
Hồi trống truy hồn bá tánh khôn.
(Lục Nương Giáng Bút).
波 羅 密
Ba La Mật, phiên âm từ tiếng Phạn Pãramitã, còn gọi là Ba la mật đa.
Ba La Mật, Hán dịch “Độ 渡” là vượt qua, từ bờ vô minh qua bờ giác ngộ, hoặc “Đáo bỉ ngạn 到 彼 岸” là đi qua bờ bên kia.
Bờ bên kia là bờ Niết Bàn giải thoát, không sinh diệt, còn bờ bên nầy là mê lầm, sanh tử và khổ đau.
Nhiệm mầu diệu pháp, Ba la mật,
Hơn cả muôn vàn ức triệu thoi.
(Thơ Tiếp Đạo).
Tìm câu Bát nhã Ba La Mật,
Ngắm cảnh Vô ưu Tứ Diệu Đề.
(Thơ Vạn Năng).
Ba lần: Ba lượt. Dâng dép: Lượm dép dâng lên.
Ba lần dâng dép, ý chỉ Trương Lương ba lần lượm dép rớt xuống cầu Hạ Bì, đem lên dâng cho Hoàng Thạch Công, nên được ông nầy tặng cho bộ Binh pháp.
Sau nhờ đó mà lập nhiều công trận và được Hán Bái Công phong Hầu.
Xem: Trương Lương dâng dép.
Ba lần dâng dép chí không xiêu,
Thao lược Trương Lương nhắm rất nhiều.
(Thơ Chơn Tâm).
Ba lơn, như chữ “Bông lơn”, là nói đùa cợt một cách thiếu đứng đắn.
Như: Tính thằng bé hay ba lơn, nói chuyện ba lơn.
Bần Đạo cũng là còn giữ tật,
Quen ba lơn lấc khấc ghẹo đời.
(Phương Tu Đại Đạo).
Ba lược sau thao, dịch từ câu “Tam lược lục thao 三 略 六 韜”.
Ba lược: Tức sách Tam lược do Hoàng Thạch Công soạn. Sách này theo Sử Ký chép, Hoàng Thạch Công đã trao cho Thương Lương ở cầu Hạ Bì.
Sáu thao: Tức Lục thao, tên cuốn sách của Thái Công Vọng, tức Lữ Vọng là hiệu Khương Thượng, tự là Tử Nha đời Châu Võ Vương soạn, chia thành Văn thao, Võ thao, Long thao, Hổ thao, Báo thao và Khuyển thao.
Ba lược sáu thao tức là lược thao dùng để chỉ người giỏi về mưu kế binh pháp.
Xem: Tam lược lục thao.
Cờ gà… khó thắng người ba lược,
Thơ cóc… xin nhường kẻ sáu thao.
(Thơ Hoàn Nguyên).
Ba: Số tiếp theo của số hai trong số đếm. Mối: Mối giềng, chỉ khuôn phép, kỷ cương.
Ba mối, như chữ “Ba giềng”, tức là ba giềng mối trong đạo Nho dạy về sự quan hệ giữa vua tôi, cha con, chồng vợ cư xử nhau cho có đạo lý, gọi là Tam cang.
Xem: Ba giềng.
Trai trung hiếu sửa trau ba mối,
Đừng buông lung lầm lỗi năm hằng.
(Kinh Sám Hối).
Hay “Ba mươi sáu cõi Thiên Tào”.
Ba mươi sáu cõi: Ba mươi sáu cõi giới. Thiên Tào 天 曹: Những cơ quan làm việc trên Thiên Đình.
Theo trong kinh sách Cao Đài, ba mươi sáu cõi hay ba mươi sáu cõi Thiên Tào, tức là ba mươi sáu tầng Trời, đó là Tam Thập Lục Thiên.
Xem: Tam Thập Lục Thiên.
1.- Ba mươi sáu cõi:
Xác tại thế, đã nên Thần,
Ba mươi sáu cõi đặng gần Linh Thiên.
(Nữ Trung Tùng Phận).
2.- Ba mươi sáu cõi Thiên Tào:
Ba mươi sáu cõi Thiên Tào,
Nhập trong Bát Quái mới vào Ngọc Hư.
(Kinh Tận Độ).
Ba sáu cõi Thiên Tào diệu vợi,
Và ba ngàn Thế Giới thinh thinh.
(Lược Thuật Toà Thánh).
Ba: Số tiếp theo của số hai trong số đếm. Nhánh: Chồi, cành, chi.
Ba nhánh là ba chồi hay ba cành, ý chỉ Tam Giáo, tức là Phật Giáo, Lão Giáo, Nho Giáo.
Theo triết lý Đạo Cao Đài, Đức Chí Tôn mở nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Ngài làm Giáo Chủ, nên Đạo của Ngài là gốc, còn Tam Giáo Phật, Tiên, Nho do hoá thân của Ngài lập ra vào thời Nhứt và Nhị Kỳ Phổ Độ, đó là nhánh. Vì vậy, Đạo Cao Đài có tôn chỉ Quy nguyên Tam Giáo, tức gom ba nhánh làm một.
Xem: Cội sanh ba nhánh.
Phép Tiên Đạo: Tu chơn dưỡng tánh,
Một cội sanh ba nhánh in nhau.
(Kinh Cúng Tứ Thời).
Vì thương sanh chúng độ Kỳ Ba,
Ba nhánh Thầy đem lại một nhà.
(Thơ Thuần Đức).
Ba: Số tiếp theo của số hai trong số đếm. Quân: Binh lính, quân lính.
Ba quân, bởi chữ “Tam quân 三 軍”, là ba đạo binh lính thời xưa.
Trong chế độ quân chủ, vua thì có lục quân, chư hầu thì có tam quân. Về sau, chữ “Tam quân” dùng để gọi chung quân đội.
Sách Luận ngữ có câu: Tam quân khả đoạt soái giả 三 軍 可 奪 帥 者, nghĩa là giữa chốn ba quân có thể bắt được viên chủ soái.
Chính giữa ba quân không lảng trí,
Việc nhà lại chịu nỗi tầm phào.
(Đạo Sử).
Nghĩa khí đã từng trên chín bệ,
Ân uy còn tạc dưới ba quân.
(Thơ Tiếp Đạo).
Hay “Tam sắc Đạo”.
Ba sắc (tam sắc): Ba màu sắc. Đó là vàng, xanh, đỏ, biểu tượng cho Phật, Tiên, Thánh. Đạo: Tôn giáo.
Ba Sắc Đạo, còn gọi là “Tam Sắc Đạo 三 色 道”, là miếng vải nhỏ kết lại thành ba màu: Vàng, xanh, đỏ, tượng cho Tam Giáo: Phật Giáo, Lão Giáo và Nho Giáo.
Ba Sắc Đạo được dùng để đeo bên tay trái trên áo Đại phục của Chánh Trị Sự có chiều ngang là 0m06, chiều dài 0m10.
Ba Sắc Đạo của Phó Trị Sự bằng phân nửa của Chánh Trị Sự, tức chiều ngang là 0m03, chiều dài 0m05.
Áo Đạo cổ trịt viền chỉ kim tuyến vàng, nơi tay trái có Ba Sắc Đạo.
(Pháp Chánh Truyền CG).
Ba: Số tiếp theo của số hai trong số đếm. Sanh: Sống.
Ba sanh, như chữ “Tam sinh 三 生”, tức là ba kiếp sống luân hồi.
Nợ ba sanh là duyên nợ tình ái gắn bó với nhau giữa người nam và nữ trong ba kiếp luân hồi phải gặp nhau.
Xem: Ba sinh hương lửa.
Đường tổ nghiệp nữ nam hương lửa,
Đốt cho nồng từ bữa ba sanh.
(Kinh Thế Đạo).
Ba sanh dầu toại thửa nguyền,
Hoạ trong giấc mộng giải phiền giao hoan.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Ba sanh: Ba kiếp sống. Hương lửa: Nhang đèn, chỉ hai người trai gái thề nguyền kết thành vợ chồng.
Ba sanh hương lửa là ba kiếp sống luân hồi nên duyên gắn bó với nhau.
Theo Cam Trạch Dao: Lý Nguyên đời Đường kết bạn thân với một vị sư chùa Huê Lâm là Viên Trạch. Một hôm hai người cùng đi chơi núi Tam Giáp, gặp một người đàn bà gánh đôi vò đi lấy nước giếng. Viên Trạch nói: Bà đó là nơi thác thân của tôi. Mười hai năm sau, tôi sẽ gặp lại ông tại mé ngoài chùa Thiên Trúc ở Hàng Châu. Đêm hôm đó Viên Trạch mất.
Mười hai năm sau, Lý Nguyên tìm đến nơi đã hẹn, gặp một đứa trẻ chăn trâu nghêu ngao hát rằng: “Tam sinh thạch thượng cựu tinh hồn, Thưởng nguyệt ngâm phong bất yếu luân, Tàm quý tình nhân viễn tương phỏng, Thử thân tuy dị tính trường tôn 三 生 石 上 舊 精 魂, 賞 月 吟 風 不 要 論, 慚 愧 情 人 遠 相 訪, 此 身 雖 異 性 長 存”, nghĩa là Tinh hồn cũ gửi đá ba sinh, Thưởng trăng ngâm gió không bàn định. Thẹn với bạn tình xa đến thăm, Thân tuy khác tính vẫn xưa in.
Hát xong liền từ biệt Lý Nguyên. Lý Nguyên biết rằng đứa trẻ chăn trâu đó chính là Viên Trạch.
Xem: Tam sinh.
Dầu phải nợ ba sanh hương lửa,
Kết bạn nhau phải lựa khách tâm đầu.
(Phương Tu Đại Đạo).
Ba tấc hơi, do chữ “Tam thốn khí 三 寸 氣” trong câu: Tam thốn khí tại thiên ban dụng, nhất đán vô thường vạn sự hưu 三 寸 氣 在 千 般 用, 一 旦 無 常 萬 事 休, nghĩa là ba tấc hơi còn thì ngàn việc dùng, một sáng vô thường (tức chết) thì muôn việc điều buông bỏ.
Xem: Dứt ba tấc hơi.
Sống còn ba tấc hơi róng giọng líu lăng,
Hồn khỏi xác, nghĩa Kim bằng đành phải dẹp.
(Giác Mê Khải Ngộ).
Ba ton là tiếng đọc âm từ chữ Pháp “bâton”, là gậy, thanh gỗ dài, tròn nhỏ, dùng để đánh hoặc chống lại.
Như: Ông chủ điền một tay cầm điếu thuốc, một tay cầm cây ba ton đi thăm ruộng.
Sẵn tay cầm lấy cán ba ton,
Vẽ một chữ cho tròn cho lớn.
(Phương Tu Đại Đạo).
Ba: Số tiếp theo của số hai trong số đếm. Thần phẩm 神 品: là phẩm vị Thiêng Liêng.
Ba Thần phẩm là ba phẩm cấp Thiêng Liêng, còn gọi thừa phẩm, đó là phẩm Thần, phẩm Thánh, phẩm Tiên.
Ba Thần phẩm này mỗi phẩm lại chia ra làm ba phẩm cấp tạo thành chín phẩm cấp gọi là “Cửu phẩm Thần Tiên 九 品 神 仙”.
Cửu Phẩm Thần Tiên gồm: Địa Thần, Nhơn Thần, Thiên Thần, Địa Thánh, Nhơn Thánh, Thiên Thánh, Địa Tiên, Nhơn Tiên, Thiên Tiên.
Cung Thiềm gắng bước cho mau,
Thoát ba Thần phẩm đứng Tam Thiên.
(Kinh Tận Độ).
Ba: Số tiếp theo của số hai trong số đếm. Thu: Mùa thứ ba trong bốn mùa.
Ba thu, là ba mùa thu, tức ba năm.
Trong Kinh Thi có câu: Nhất nhật bất kiến như tam thu hề 一 日 不 見 如 三 秋 兮, tức là một ngày không trông thấy mặt nhau lâu bằng ba mùa thu. Ý muốn nói thời quá dài lâu.
Ngóng mưa đã đợi ba thu mãn,
Cứu chúng hờn ai chẳng trổ tài.
(Bát Nương Giáng Bút).
Gió mưa đành phận ba thu lụn,
Vàng đá vì ai một kiếp chờ.
(Thơ Thuần Đức).
Ba: Số tiếp theo của số hai trong số đếm. Trấn 鎮: Giữ, giữ cho yên.
Ba Trấn, dịch từ chữ “Tam Trấn 三 鎮 威 嚴”, ý chỉ Tam Trấn Oai Nghiêm trong Đạo Cao Đài.
Ba Trấn hay Tam Trấn Oai Nghiêm là chỉ ba Đấng thay mặt ba vị Giáo Chủ Tam Giáo để cầm quyền Tam Giáo trong thời Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Thầy chẳng để thử thất, Ba Trấn trách Thầy vì yêu mến quá lẽ mà làm mất hết công bình, nhứt là Lý Thái Bạch kêu nài hơn hết.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
Ba trợn là chỉ những hạng người có tính tình dở hơi, không đúng đắn, không đàng hoàng.
Như: Nó ăn nói ba trợn lắm, gặp thằng ba trợn biết gì phải quấy mà mầy trách.
Ấy là khi chưa đắc thế, thiên hạ kêu là ba trợn ba nháng đó...
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
Ba vạn sáu ngàn: Ba mưôn sáu, tức ba mươi sáu ngàn. Ngày: Khoảng thời gian từ sáng hôm trước đến sáng hôm sau.
Ba vạn sáu ngàn ngày tức một trăm năm.
Một trăm năm là tuổi thọ một đời người, do câu trong Kinh Lễ: “Nhân thọ dĩ bách niên vi kỳ 人 壽 以 百 年 為 期”, nghĩa là đời sống của con người lấy trăm tuổi làm kỳ hạn.
Ba vạn sáu ngàn ngày là một trăm năm, dùng để chỉ một đời người.
Có thân giữa chốn đoạ đày,
Đếm ba vạn sáu ngàn ngày khó khăn.
(Kinh Thế Đạo).
Đếm ba vạn sáu ngàn ngày,
Cõi Dương gian với cõi Tuyền đài gần nhau.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Ba vòng vô vi, còn gọi là Diệu Quang Tam Giáo, là ba vòng tròn có màu vàng, xanh, đỏ được liên kết và cắt với nhau, tượng trưng cho Tam giáo: Phật giáo màu vàng (phái Thái), Tiên giáo màu xanh (phái Thượng) và Thánh giáo màu đỏ (phái ngọc). Có ba loại vòng vô vi:
1.- Ba vòng vô vi được nối tiếp nhau theo hàng dọc, tạo thành một xâu dài. Ba vòng vô vi này thường được đặt trên các cổng Tam quan.
2.- Ba vòng vô vi được liên kết theo hình tam giác. Loại ba vòng vô vi nầy thường được đặt ở giữa cửa sổ trong các Thánh Thất địa phương.
3.- Ba vòng vô vi là ba vòng tròn có hình lớn nhỏ nằm đồng tâm với nhau.
Đức Hộ Pháp dùng Ba vòng vô vi cùng với hai món bí pháp là Long Tu Phiến và cây Kim Tiên đem trấn pháp nơi Trí Huệ Cung Thiên Hỷ Động. Trong Thuyết Đạo, Ngài có nói: Hôm nay là ngày mở cửa Thiêng Liêng và đưa nơi tay các Đấng Nguyên Nhân ấy là một quyền năng đặng tự giải thoát lấy mình hai món Bí Pháp ấy là:
- Long Tu Phiến của Đức Cao Thượng Phẩm để lại.
- Kim Tiên của Bần Đạo.
Hiệp với ba vòng Vô Vi, tức nhiên Diệu Quang Tam Giáo hay là hình trạng Càn Khôn Võ Trụ, mà đó cũng là tượng ảnh Huệ Quang Khiếu của chúng ta đó vậy.
Và Ngài kết luận: Ấy là Bí Pháp trấn tại Thiên Hỉ Động Trí Huệ Cung. Toàn thể ngó thấy không có gì hết, mà trong đó có quyền pháp vô biên, vô giới. Giải thoát đặng cùng chăng là do bao nhiêu đó.
Trên áo Đại Phục của các vị Đầu Sư nam, nữ, trước ngực và sau lưng đều có thêu ba vòng vô vi bao quanh sáu chữ Nho là “大 道 三 期 普 度” (Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ). Ngoài ra trên Ngưỡng Thiên Mạo của các Giáo Hữu ba phái, phía trước có thêu một Thiên Nhãn bao quanh ba vòng vô vi.
Hiệp với ba vòng Vô Vi, tức nhiên Diệu Quang Tam Giáo hay là hình trạng Càn Khôn Võ Trụ, mà đó cũng là tượng ảnh Huệ Quang Khiếu của chúng ta đó vậy.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
1.- Bá 伯 là tên một tước thứ ba trong năm tước quan: Công, hầu, bá, tử, nam.
Như: Bá tước, công hầu vương bá.
Trăm đắng ngàn cay đành một kiếp,
Công Hầu Vương Bá dám đâu hơn.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
2.- Bá 霸 là những người hay dụng quyền mưu trí thuật. Như: Bá chủ, bá đạo, bá quyền, định bá đồ vương.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Kẻ tính làm bá chủ hoàn cầu để lập thành một lực lượng với cái phương pháp tàn sát đã kết liễu thế nào, chúng ta thấy rõ.
Sống thì định bá đồ vương,
Quy Thiên dựng lại miếu đường thuở xưa.
(Kinh Thế Đạo).
3.- Bá 百, còn đọc “Bách” là trăm. Như: Bá tánh, bá quan, bá thiên vạn ức Phật.
Thánh giáo Thầy có câu: Thầy lại khuyên nhủ các con rằng: Thầy đã đến chung cùng với các con, các con duy có tu mà đắc đạo, phải đoái lại bá thiên vạn ức nhơn sanh còn phải trầm luân nơi khổ hải, chưa thoát khỏi luân hồi, để lòng từ bi mà độ rỗi.
Nắng hạ héo khô vườn bá tánh,
Dắt nhau tìm núp bóng Cao Ðài.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
4.- Bá 柏, còn đọc “Bách”, là cây trắc.
Như: Tòng bá xum xuê, thuyền bá, gậy bá.
Hoa tươi, tòng bá, khác nhau xa,
Tòng bá xơ rơ kém sắc hoa.
(Giới Tâm Kinh).
Đạp giày cỏ nương cây gậy bá,
Mặc áo tơi nón lá che thân.
(Nữ Trung Tùng Phận).
5.- Bá 播 nghĩa chính là gieo lúa. Nghĩa bóng là rải, rắc ra cho rộng khắp.
Như: Truyền bá, quảng bá.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Lẽ dĩ nhiên là Chức Sắc Hội Thánh phải tích cực thi hành theo giáo lý trước khi phổ biến nó đi khắp nơi để giáo hoá tín hữu và truyền bá Ðạo Trời.
Các con truyền bá đạo Người, nhưng chính các con cũng không hiểu chi cả.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
伯 夷
Bá Di là tên của một người Hiền ở thời nhà Thương.
Bá Di là anh Thúc Tề, con của vua nước Cô Trúc, không chịu làm vua nhường ngôi cho em, em cũng không muốn làm vua, rồi sau cả hai vào ẩn dật ở núi Thú Dương, hái rau vi ăn mà sống.
Xem: Di Tề.
Cơ duyên mong được ngày tương hội,
Nhắc chuyện Thúc Tề với Bá Di.
(Thơ Chơn Tâm).
伯 夷 叔 齊
Trong quyển Đạo Sử Xây Bàn của Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu, Đức Chí Tôn trong Đàn cơ ngày 02/11/Bính Dần (06-12-1926) có ban cho ông Đoàn Văn Thương một bài thi tứ tuyệt như sau:
Thương, ai chẳng chịu lộc nhà Châu,
Ăn thể ăn vi chịu thảm sầu.
Con vốn như người Thầy nói đó,
Biết ai con trả lại đôi câu.
Thông thường trong một bài thơ, khi nói đến điển tích thường hài tên nhân vật ra thì dễ hiểu, nhưng nếu không biết nội dung điển tích thì cũng khó hiểu được nghĩa. Ở đây, bài thi nói đến tích Bá Di và Thúc Tề, nhưng Đức Chí Tôn không nêu tên ra, rồi bảo Ông Đoàn Văn Thương cho biết là người nào.
Đại ý hai câu (1) và (2) Đức Chí Tôn nói đến hai vị hiền thần đời nhà Thương là Bá Di, Thúc Tề. Hai người không chịu hưởng lộc nhà Châu, thà chịu khổ cực, hái rau vi mà sống qua ngày trên núi Thú Dương.
Câu (3) và (4) Đức Chí Tôn cho rằng Ông Đoàn Văn Thương giống như người mà Ngài vừa nhắc đến và bảo ông trả lời xem người ấy là ai?
Không biết Ông Đoàn Văn Thương trả lời như thế nào, mà Đức Chí Tôn lại rầy ông và những người đã tham dự trong đàn cơ hôm đó như sau: Biểu nó nói.... nhà Thương ai chẳng chịu lộc nhà Châu. Lũ bây cũng chưa hiểu thơ há? Cho nữa vô ích.
Sau đó, Đức Chí Tôn lại giảng tiếp: Thầy nói Thương là nhà Thương, các con hiểu thương là thương, ngu ngu ngu....
Rồi Đức Chí Tôn lại rầy Ngài Cao Thượng Phẩm như sau: Cư, con đọc già đời cũng vậy há. Thằng Thương nó giống như Bá Di, Thúc Tề, nó mới chịu khổ vậy đó các con.
Như vậy, câu (1) chữ “Thương” không phải là thương xót mà có nghĩa là triều đại nhà Thương. Theo ý đó, Thầy nói là triều đại nhà Thương (bên Trung Hoa), người nào không chịu hưởng lộc của nhà Châu.
Để hiểu được đại ý bài thi nầy, chúng ta phải biết điển tích Bá Di, Thúc Tề.
Bá Di, Thúc Tề là hai người con của vua Cô Trúc ở cuối đời nhà Thương, đầu đời Châu. Bá Di là anh cả, Thúc Tề là em út. Vua Cô Trúc yêu Thúc Tề, lập di mệnh cho Thúc Tề nối ngôi. Quốc dân theo di mệnh lập Thúc Tề, Thúc Tề không chịu, nhường lại cho Bá Di cho phải lẽ (vì Bá Di là anh). Bá Di cũng không chịu, nhường lại cho Thúc Tề để tuân lệnh cha. Không ai chịu nhận rồi cả hai sau đó trốn vào núi Thú Dương ở ẩn, quốc dân phải lập người con giữa.
Lúc đó Bá Di và Thúc Tề nghe tiếng Ông Tây Bá Xương khéo nuôi người già, muốn tới quy phục. Tới nơi thì Tây Bá đã mất. Vua Võ Vương chở thần chủ (Linh vị) của Tây Bá đem quân qua đông phạt vua Trụ.
Bá Di, Thúc Tề dập đầu trước ngựa mà can rằng: Cha mới chết (Tây Bá Xương chết) mà dấy động can qua thì có đáng gọi là hiếu không? Làm tôi đánh vua có đáng gọi là trung không?
Kẻ tả hữu của nhà vua muốn giết, ông Thái Công Vọng bảo: Hai người đó là hiền sĩ, bèn đỡ dậy, rồi thả cho đi.
Khi Võ Vương đánh Trụ thắng, lên ngôi làm vua xưng hiệu nhà Châu, thiên hạ đều thần phục, chỉ Bá Di, Thúc Tề cho hành vi của Võ Vương là đáng xấu hổ, nên không chịu thờ nhà Châu và giữ nghĩa khí, chẳng ăn lúa nhà Châu, lên ở ẩn trên núi Thú Dương, hái rau vi mà nuôi sống.
Có người thấy Bá Di, Thúc Tề không chịu ăn lúa nhà Châu, mà hái rau vi để sống, bèn chê rằng: Không ăn thóc nhà Châu, đi ăn rau để sống. Vậy chớ ngọn rau tấc đất không phải của nhà Châu là gì? Bá Di, Thúc Tề nghe được câu chuyện đó, bèn nhịn đói mà chết.
Kìa Bá Di, Thúc Tề
mượn cảnh không dứt rồi mối tệ,
Nọ Thạc Sùng, Vương Khải
cũng danh tiếng ai có kể ra gì?
(Giác Mê Khải Ngộ).
Bá Đào họ Tả, là một hiền sĩ ở núi Tích Thạch, xứ Tây Khương. Cha mẹ đều mất sớm, ông rất siêng năng, có chí học hành, nhưng gặp thời hung bạo, loạn lạc, ông không muốn ra làm quan.
Giác Ai họ Dương là người xứ Ung Châu, tính ham đọc sách, cha mẹ đều mất sớm.
Bá Đào và Giác Ai là hai hiền sĩ đời chiến quốc, cùng kết làm anh em với nhau, cả hai nghe tin vua nước Sở cầu hiền, định đi đầu vua nước Sở. Dọc đường Bá Đào vì chịu không nổi đói lạnh mà chết, Giác Ai tạm chôn cất bạn bên đường, rồi tìm đến ra mắt vua Sở, được trọng dụng. Giác Ai xin phép vua về chôn cất Bá Đào cho tử tế. Một hôm Giác Ai nằm mộng, thấy Bá Đào về cảm ơn, và xin dời mả mình đi nơi khác, vì nơi ấy gần mả của Kinh Kha, bị Kinh Kha về hành hung. Sáng ngày Giác Ai đến miễu Kinh Kha mắng chửi và nếu còn quậy phá Bá Đào nữa thì sẽ đào mồ phá miễu Kinh Kha. Đêm ấy Bá Đào cũng hiện về đòi xin dời mả, vì vẫn còn bị Kinh Kha và bọn thuộc hạ hiếp đáp.
Giác Ai bèn viết biểu tâu cho vua hay, rồi phân chứng cùng làng xóm rằng: Kinh Kha hiếp đáp bạn ta, nên ta quyết xuống âm phủ để đánh nó, nói rồi rút gươm tự vận. Đêm ấy, mưa gió sấm sét tưng bừng, đến sáng người ta thấy mồ mả Kinh Kha bể nát, cây cối gần mộ tróc gốc như bị đào xới.
Sở Vương thấy tình nghĩa kim bằng của hai người quá thắm thiết, đáng nêu gương cho hậu thế, bèn sai quan quân lập miếu thờ hai người.
Bên ngoài hành lang Báo Ân từ về phía nữ phái có một khuôn hình lấy tích “Bá Đào Giác Ai”, để nêu gương bậc anh hùng nghĩa khí.
Lâm tuyền nghĩa nọ cũng là cao,
Thua chuyện Giác Ai với Bá Đào.
(Thánh Giáo Minh Thiện).
Kìa gương Bá Đào còn bia nào dối giả,
Bạn Giác Ai lời hẹn đã chẳng phai mòn.
(Giác Mê Khải Ngộ).
Bước ứng thí, bạn vong niên kết,
Giác Ai già lạnh chết táng an.
Kinh Kha đuổi, hồn anh than,
Bá Đào nguyện thác đánh tan quỷ quyền.
(Báo Ân Từ).
1.- BÁ ĐẠO 霸 道
Bá: Dùng sức mạnh để ép người khác phải phục. Đạo: Đường lối chính sách phải theo.
Bá đạo, trái với Vương đạo, là sắp đặt, lo tính gây dựng nghiệp bá, tức là đánh dẹp và thần phục các nước chư hầu để làm bá chủ.
Nghiệp bá thì dùng bá đạo để trị nước. Bá đạo trọng về hình pháp, binh quyền, tín thuật. Trong thời Xuân Thu đã có năm vị vua dùng bá đạo mà hùng cường một thời, làm minh chủ các nước chư hầu khác, gọi là ngũ bá: Tề Hoàn Công, Tấn Văn Công, Tần Mục Công, Tống Tương Công,và Sở Trang Vương. Những vị vua này không phải là bậc tài đức cao, mà chỉ nhờ biết tin dùng người hiền, có chính sách khéo léo làm cho dân giàu, binh mạnh và làm chủ được những chư hầu khác.
Mạnh Tử đã định nghĩa Vương đạo và Bá đạo như sau: Dĩ lực giả nhân giả bá; bá tất hữu đại quốc. Dĩ đức hành nhân giả vương; vương bất đãi đại 以 力 假 仁 者 霸, 霸 必 有 大 國. 以 德 行 仁 者 王, 王 不 待 大, nghĩa là người dùng sức mạnh mà mượn tiếng làm điều nhân, là bá; người làm bá tất phải có nước lớn. Người lấy đức làm điều nhân là vương; người làm vương không đợi có nước lớn.
Tóm lại, Vương đạo và Bá đạo của thời xưa cũng thể hiện hai loại quyền: Quyền hành được xây dựng trên nhơn nghĩa, đạo đức và quyền hành được tạo lập bởi sức mạnh binh quyền.
Vả chăng cái Thiên đạo khác với Vương đạo, cũng như Đế đạo khác với Bá đạo.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
2.- BÁ ĐẠO 伯 道
Bá Đạo là tên tự của Đặng Nho, người đời Tấn, có nuôi đứa con của người anh đã mất.
Khi có biến, vợ chồng Bá Đạo phải bỏ con để bảo toàn đứa cháu (con người anh).
Xem: Đặng Nho.
Bá Đạo nuôi cháu bỏ con,
Hy sinh núm ruột, giữ tròn đệ huynh.
(Thơ Thiên Vân).
百 花 園
Bá (Bách): Trăm, chỉ số nhiều. Huê viên (hoa viên): Vườn hoa kiểng.
Theo nghĩa từ ngữ, Bá huê viên là vườn trồng trăm thứ bông hoa.
Bá huê viên là tên một vườn hoa trong nội ô Toà Thánh, do Ngài Bảo Thế Lê Thiện Phước đề nghị lập vào năm 1963 tại một vuông đất trước Báo Ân Từ, rộng khoảng một mẫu rưỡi tây. Đây là một thắng cảnh có trồng nhiều loại bông hoa, cây kiểng đẹp đẽ, dành cho du khách khắp mọi nơi đến đây thưởng ngoạn và lưu hình kỷ niệm.
Nầy Bá Huê Viên đẹp tuyệt trần,
Trước đền Phật Mẫu hãy dừng chân.
(Thơ Hoàn Nguyên).
Cội Âm Chất hiện tại môn trung,
Cảnh Bá Huê Viên chiếm một vùng.
(Quang Cảnh Toà Thánh).
伯 里 奚
Bá Lý Hề là người đời Xuân Thu, tự là Tỉnh Bá, lúc nhỏ nghèo khó trôi nổi, ba mươi ngoài tuổi mới cưới Đỗ Thị làm vợ, sinh được một người con trai.
Sinh trưởng và lớn lên tại nước Ngu, không có người tiến cử, lại chưa gặp được thời, ông định châu lưu thiên hạ đặng kiếm chỗ làm quan, nhưng thấy nhà nghèo, vợ con không nơi nương tựa, nên còn chần chờ, chưa dám quyết định.
Đỗ Thị là một người đàn bà thông minh, hiền đức, biết được ý của chồng, mới khuyên ông nên ra đi, chớ vì bận bịu vợ con mà bỏ việc công danh, rồi bắt gà làm bữa tiệc đãi chồng trước khi lên đường.
Trước nhứt, Bá Lý Hề qua Tề, định ra mắt Tương công, nhưng không người tiến dẫn, túi lại không tiền nên đành đi xin ăn nơi đất Chất.
Lúc ấy Bá Lý Hề đã được bốn mươi tuổi, kết nghĩa anh em với một người hiền ở Chất là Kiển Thúc và tạm ngụ tại nhà người ấy, hằng ngày phải đi giữ trâu cho Thúc để kiếm tiền độ nhựt.
Sau nghe bên nhà Châu có vị công tử tên là Vương Tử Đồi, tánh thích trâu và hậu đãi cho những kẻ nuôi trâu, Bá Lý Hề mới xin Kiển Thúc và từ giã để qua tìm Vương Tử Đồi. Kiển Thúc thấy Hề gặp cảnh khó, sợ gặp người không đáng thờ mà theo, nên dặn rằng: Phàm người trượng phu không nên vì vật chất mà đầu người, nhưng lỡ theo mà sau bỏ đi là người bất trung, còn cứ theo hoài để bị nạn là người bất trí. Vì vậy, em nên thận trọng lấy mình, sau anh em sẽ gặp lại.
Kiển Thúc sau nầy có qua Châu để gặp Vương Tử Đồi và thăm Bá Lý Hề, ông thấy Đồi là một người có chí lớn nhưng tài kém, dưới trướng là một bọn sàm nịnh, nên cho Đồi không làm được chuyện lớn, bèn khuyên Bá Lỳ Hề bỏ ra đi.
Bá Lý Hề nhân xa nhà lâu, muốn về đất Ngu để thăm lại vợ con. Kiển Thúc đồng ý cũng theo Hề đi cho có bạn. Khi đến nhà mới hay Đỗ Thị vì làm không đủ ăn nên đã lưu lạc xứ nào không ai biết. Còn Kiển Thúc nhờ người bạn là Cung Chi Kỳ giới thiệu Bá Lý Hề với Ngu Công, Hề được phong làm chức Trung Đại Phu. Kiển Thúc muốn về Tống, nên đến từ giã Hề và dặn rằng: Ngu Công là người hẹp kiến thức, không đáng phò, nhưng thấy em cùng khốn đã lâu, muốn tìm chỗ nương thân tạm. Sau nầy, em muốn tìm anh thì đến làng Minh Lộc nước Tống sẽ gặp lại.
Ngu Công vì không nghe lời can của Cung Chi Kỳ để cho nước Tấn mượn đất qua đánh Quắc, thắng Quắc rồi Tấn lại đánh Ngu, Ngu đành mất nước. Bá Lý Hề tự cho mình là người không trí há lại để mất trung nữa sao, nên ông vẫn theo hầu Ngu Công bị bắt về với nước Tấn.
Ở Tấn, Bá Lý Hề có lần mắng vị Đại Phu là Chu Chi Kiều, khiến hắn sinh tâm hãm hại. Nhân Tấn Công gã con cho Tần, Chu Chi Kiều mới tiến dẫn Bá Lý Hề làm người đưa dâu về Tần. Giữa đường, thừa lúc vắng người Bá Lý Hề mới trốn, lén qua đầu Sở.
Mới tới Uyển Thành ông bị bọn thợ săn bắt về để chăn trâu. Ở đây, Hề nuôi trâu mập lại sinh sãn nhiều, chẳng bao lâu chuyện thấu tai đến Sở Vương. Sở Vương cho đòi Bá Lý Hề về chăn ngựa cho nhà vua ở Nam Hải.
Trong thư Tấn Hầu báo có Bá Lý Hề đưa dâu sang Tần, nhưng Tần Mục Công không thấy đến bèn hỏi Công Tử Chấp. Chấp nói: Bá Lý Hề là người kinh bang tế thế, chắc Hề trốn qua Sở vì nghe đâu vợ Hề cũng đang ở Sở.
Tần Mục Công sai người qua Sở dò la mới hay Bá Lý Hề chăn ngựa cho Sở Hầu ở Nam Hải, bèn sai Công Tôn Chi dùng hậu lễ rước về. Công Tôn Chi can rằng: Sở Vương để Bá Lý Hề chăn ngựa là không biết người, nếu sai đem hậu lễ rước thì hoá ra ta cho Sở biết Bá Lý Hề là người hiền, chắc gì Sở cho Bá Lý Hề đi. Chi bằng mượn cớ trốn đưa dâu để bắt tội Bá Lý Hề mà chuộc về mới được. Quả nhiên rước được Bá Lý Hề về Tần để phong làm Thừa Tướng.
Vợ Bá Lý Hề may vá không đủ sống phải ra đi trôi nổi bềnh bồng nhiều năm mới sang Tần thì hay được Bá Lý Hề làm Thừa Tướng. Đỗ Thị thừa dịp trong phủ cần người may vá, mới xin vào làm. Ngày kia, trong phủ có đờn ca, Đỗ Thị xin nhạc công theo lên nhà khách để đàn ca giúp.
Bài của Đỗ Thị ca trong phủ như sau:
“Bá Lý Hề, ngũ dương bì, ức biệt thì, phanh phục thư, xuân huỳnh phỉ, xuy diễm di. Kim nhựt phú quý, vong ngã vi?
Bá Lý Hề, ngũ dương bì, phụ lương nhục, tử đề ky, phu văn tú, thê hoãn y, ta hồ phú quý, vong ngã vi?
Bá Lý Hề, ngũ dương bì, tích chi nhựt quân hành nhi ngã đề, kim chi nhựt, quân toạ nhi ngã ly, ta hồ phú quý, vong ngã vi?”.
Nghĩa là:
Bá Lý Hề, năm bộ da dê! Nhớ ngày nào cùng nhau ly biệt: Mổ gà mái ấp, chẻ cánh cửa làm củi, thổi nồi cơm gạo vàng... Ngày nay giàu sang, quên ta hay sao?
Bá Lý Hề, năm bộ da dê! Cha ăn thịt cá, con đói khóc dài, chồng mặc áo gấm, vợ giặt thuê... Ngày nay giàu sang, quên ta hay sao?
Bá Lý Hề, năm bộ da dê! Nhớ ngày xưa, tiễn chàng ra đi, thiếp nước mắt chứa chan, tới bây giờ thấy chàng ngồi đó, thiếp đứt ruột
Bá Lý Hề nghe ca thốt nhiên sửng sốt, cho kêu người đàn bà lại gần mà hỏi, thì quả nhiên là vợ mình, bèn ôm nhau khóc rống lên. Từ đó Bá Lý Hề mới sum hợp được vợ con và cùng hưởng phú quý.
Bên ngoài hành lang Báo Ân Từ về phía nam phái có vẽ khuôn hình lấy tích “Bá Lý Hề”.
Lập thân đừng để danh lưu,
Cũng như Bá Lý Hề âu bạc tình.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Chưa gặp thời Lý Hề dày dạn,
Bắt đưa dâu bất mãn trốn đi.
Thoát nạn nhờ ngũ dương bì,
Sau làm Thừa tướng phát huy nước Tần.
(Báo Ân Từ).
百 衲
Bá (Bách): Trăm. Nạp: Vá lại.
Bá nạp tức là một loại áo của các tu sĩ Phật giáo.
Sở dĩ gọi là bá nạp là vì áo ấy do hằng trăm miếng vải kết lại mà thành. Theo luật của nhà Phật, các vị tu sĩ phải lượm vải để góp lại thành cái áo mà mặc, chứ không được mặc áo do một mảnh vải tạo thành.
Áo bá nạp ngụ ý chiếc áo do bá tánh mỗi người một mảnh vải kết lại thành để tăng sĩ mặc.
Xem Ca sa, áo ca sa.
Rửa lòng ăn những muối dưa,
Mượn y bá nạp mà chừa dục tâm.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
Cây trăm thước đổi hương tàn,
Treo y bá nạp làm màn phòng the.
(Nữ Trung Tùng Phận).
百 衲 絖
Bá nạp: Trăm miếng vải kết lại, chỉ áo của người tu theo Phật. Quang: Cái choàng.
Bá nạp quang hay Bá nạp y là một chiếc áo choàng bằng hằng trăm mảnh vải kết lại thành.
Trong Đạo Cao Đài, các chức sắc phái Thái từ Giáo Sư trở lên, khi mặc Đại phục bên ngoài đều có choàng áo Bá nạp quang màu đỏ (còn gọi là Khậu). Đại bá nạp quang và Tiểu Bá nạp quang.
Ngoài (Đầu Sư) choàng Bá nạp quang màu đỏ, y như của Thái Chưởng Pháp.
(Pháp Chánh Truyền CG).
伯 牙
Bá Nha là một người rất giỏi đàn, làm quan đến chức Thượng Đại Phu, đời nhà Tống, kết bạn tri âm với Tử Kỳ là một tiều phu sành về âm luật, phân biệt được tiếng đàn.
Sau Tử Kỳ chết, Bá Nha cho rằng không còn người tri âm nữa, nên đập vỡ cây đàn, thề không đàn nữa.
Xem: Bá Nha Tử Kỳ.
Gượng gạo lên dây trỗi khúc cầm,
Bá Nha viếng mộ khóc tri âm.
(Thơ Chơn Tâm).
伯 牙 終 子
Bá Nha Chung Tử là Bá Nha và Chung tử Kỳ.
Bá Nha là người đời Tống, làm quan đến chức Thượng Đại Phu, biết đàn rất giỏi.
Một hôm đi sứ nước Sở về, gặp đêm trăng thanh gió mát, cập thuyền ở bờ sông Hàm Dương, cao hứng lấy đàn ra khảy. Lúc ấy có Tử Kỳ là một tiều phu đi đốn củi về, dừng chân lại nghe lén. Bá Nha đang đờn bỗng đứt dây, bèn sai người lên bờ bắt được Tử Kỳ đang đứng rình nghe. Chàng hỏi xuất xứ, Tử Kỳ trả lời: Nhân đi đốn củi, nghe tiếng đàn hay, đứng thưởng thức. Bá Nha không tin một gã tiều phu lại hiểu về âm nhạc, nên đàn một bản rồi hỏi Tử Kỳ biết được bản đó không. Tử Kỳ đáp: Bài Đức Khổng Tử thương tiếc Nhan Hồi.
Bá Nha bèn mời Tử Kỳ xuống thuyền, rồi nghĩ mình đang ở chốn non cao mà khảy một bản. Chung Tử Kỳ nghe xong khen rằng: Thật là hay. Chí của Ngài vọi vọi ở non cao! Bá Nha lại khảy thêm một bản nữa, nghĩ mình đang ở trên nước. Chung Tử Kỳ lại khen: Hay! Chí của Ngài cuồn cuộn như nước chảy!.
Đêm đó hai người trò chuyện với nhau rất tâm đắc và trở thành đôi bạn tri âm. Bá Nha mời Tử Kỳ theo mình về Kinh đô sống chung, Tử Kỳ từ chối vì còn bà mẹ già đang phụng dưỡng, nhưng hẹn ngày nầy năm sau sẽ gặp lại nơi nầy, rồi hai người biệt nhau.
Năm sau, Bá Nha đúng hẹn, nhưng đến nơi không thấy Tử Kỳ đâu, lấy đàn ra khảy, âm thanh nghe sầu buồn ai oán, Bá Nha sinh nghi, đợi sáng đi tìm mới hay Tử Kỳ đã chết rồi. Bá Nha đến mộ Tử Kỳ đàn một bài điếu hết sức bi thảm, rồi khóc mà đập vỡ cây đàn, thề không bao giờ đàn nữa.
Khúc nhạc Bá Nha hoà nghĩa đệ,
Tấm lòng Chung Tử tạ phương huynh.
(Thơ Hoàn Nguyên).
Kế đây hình Bá Nha, Chung Tử,
Gốc hai người viễn xứ giao thâm.
(Lược Thuật Toà Thánh).
伯 子
Bá Tử tức là Bá Nha thời Xuân Thu, là người giỏi đàn gặp và chơi thân với Chung Tử Kỳ là người sanh nghe tiếng đàn. Khi Chung Tử Kỳ Mất, Bá Nha đập đàn không gảy nữa, vì cho đời không ai hiểu tiếng đờn của mình.
Xem: Bá Nha Chung Tử.
Thảo nào Bá Tử ôm đờn đập,
Chớ trách Trần Phồn xếp chõng treo.
(Thơ Thuần Đức).
Bá (Bách): Trăm. Quan: Người đảm nhận chức vụ trong triều đình.
Bá quan, như chữ “Bách quan 百 官”, là chỉ tất cả các quan trong triều đình.
Tuân Tử có câu: Cổ giả, thiên tử thiên quan, chư hầu bách quan 古 者, 天 子 千 官, 諸 侯 百 官, nghĩa là ngày xưa, vua có ngàn ông quan, còn chư hầu có trăm ông quan.
Tin bay đến lịnh cửu trùng,
Bá quan lũ lượt tập trung vào chầu.
(Phù Kiều Hận Sử).
Bá (Bách): Trăm. Tánh (Hay tính): Họ.
Bá tánh, như chữ “Bách tính 百 姓”, là trăm họ.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Ngài đã thấy phép trị thế, dầu cho dân sanh phản kháng thế nào, cũng tuỳ theo một chủ quyền chính thể, hoặc do nơi đông tay xúm nhau đào tạo hay là do ở một người đã đặng mạng Trời làm chúa Đời, cầm luật pháp trị bá tánh.
Lạc hứng khấu cung giai miễn lễ,
Thoát tai bá tánh ngưỡng Ân sinh.
(Bài Dâng Rượu).
Nắng hạ héo khô vườn bá tánh,
Dắt nhau tìm núp bóng Cao Ðài.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
柏 松
Bá: Cây bá, tức cây trắc. Tòng (Tùng): Cây tùng, còn gọi cây thông.
Bá tòng, như chữ “Bách tùng”, là cây bá và cây tùng,.hai loại cây sống lâu năm, gặp mùa Đông giá rét vẫn xanh tươi, thường được trồng nơi sân chùa.
Vì vậy, bá tòng (bá tùng), rừng tòng được dùng để chỉ cảnh chùa.
Ðường về chớ nệ bước non sông,
Lần đến tìm nơi cảnh bá tòng.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Hay “Bách tuế nhân”.
Bá (bách): Trăm. Tuế: Tuổi. Nhân: Người.
Bá tuế nhân, như chữ “Bách tuế nhân 百 歲 人”, là người trăm tuổi.
Cổ thi có câu: Sơn trung tự hữu thiên niên thụ, Thế thượng nan phùng bách tuế nhân 山 中 自 有 千 年 樹, 世 上 難 逢 百 歲 人, nghĩa là cây trong rừng tự có ngàn năm sống, kẻ ở đời khó kiếm người trăm tuổi.
Thế thượng hề vô bá tuế nhân,
Thất tuần dĩ định vấn thời quân.
(Thánh Ngôn Chép Tay).
Bá (bách): Cây bá, tức cây trắc. Tùng (tòng): Cây tùng, còn gọi cây thông.
Bá tùng, như chữ “Bách tùng 柏 松”, là cây bá và cây tòng, tức cây trắc, cây thông, hai loại cây sống lâu năm, gặp mùa Đông giá rét vẫn xanh tươi, thường được trồng nơi sân chùa.
Vì vậy, bá tùng, rừng tòng được dùng để chỉ cảnh chùa, ngôi chùa.
Rừng thiền trở gót mới thung dung,
Nhàn hạ riêng vui cảnh bá tùng.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
伯 爵
Bá: Một trong năm tước: Công, Hầu, Bá, Tử, Nam. Tước: Một danh vị do vua phong.
Bá tước là tước của vua phong cho các ông hoàng trong hoàng tộc, hay những người có công trạng.
Bá tước đứng vào hàng thứ ba, sau Công tước, Hầu tước và trước Tử tước, Nam tước.
Bá tước công khanh ý vị gì?
Mà đời dám đổi kiếp sầu bi.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Mượn bút nghiên khuây khoa vẻ thảm,
Những là Bá Tước gánh đồ thơ.
(Đạo Sử).
百 千 萬 刼 難 遭 遇
Bá thiên vạn kiếp: Trăm ngàn muôn kiếp. Nan tao ngộ: Khó gặp gỡ nhau.
Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ có nghĩa là trăm ngàn muôn kiếp rất khó khăn mới gặp đặng Đức Phật.
Thật vậy, con người trong vòng luân hồi sinh tử, dù trải qua trăm ngàn muôn kiếp mà không có duyên phần thì cũng khó mà gặp đặng Đức Phật ra đời.
Trong kinh Pháp Cú Đức Thích Ca Mâu Ni Văn Phật có dạy như sau: “Được sinh làm người là khó, được sống còn là khó, được nghe chánh pháp là khó, được gặp Phật ra đời lại càng khó hơn”.
Cổ nhân cũng thường nói rằng: Hữu duyên thiên lý năng tao ngộ, Vô duyên đối diện bất tương phùng 有 緣 千 里 能 遭 遇, 無 緣 對 面 不 相 逢. Nghĩa là có duyên phần thì dù xa ngàn dặm cũng có thể thấy nhau, không duyên phần dù đối mặt nhau cũng khó gặp gỡ.
Ở đây, chúng sanh luân hồi trong nhiều kiếp và trải qua nhiều nguơn hội, từ Thượng nguơn, đến Trung nguơn, rồi nay đến Hạ nguơn hầu mãn, lại may duyên lắm mới được gặp thời kỳ Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế, vì thương sanh chúng, mà giáng cơ khai nền Đại Đạo, như lời Thánh giáo dạy: “Đạo Trời dìu bước nhơn sanh, đường Thánh dẫn người phàm tục. Sanh nhằm lối may mắn đặng gặp một Đạo Chánh, nếu chẳng lo dưỡng tánh trau mình, để bước vào đường Cực Lạc, thoát đoạ Tam Đồ, một mai cảnh ủ bông tàn, rốt lại ăn năn vô ích”.
Đức Lý Giáo Tông cũng có dạy như sau: “Mở một mối đạo chẳng phải là sự thường tình, mà sanh nhằm đời đặng gặp một mối đạo cũng chẳng phải dễ”.
Chúng ta muốn thoát lìa sinh tử, lại may duyên được sinh ra kiếp con người, đặc biệt lại gặp được thời Tam Kỳ Phổ Độ, Chí Tôn Đại Ân xá, khai nền Đại Đạo mở cơ tận độ cho toàn thể chúng sanh chung hưởng.
Người ta thường nói: “Nhân thân nan đắc, Phật pháp nan văn 人 身 難 得, 佛 法 難 聞”, nghĩa là thân người khó được, pháp Phật khó nghe. Thế mà hôm nay chúng ta đều có được cả, đó là nhờ vô lượng kiếp chúng ta tu hành, lập nhiều phước đức để tạo được duyên phần trong kiếp hôm nay.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: “Thầy lấy đức háo sanh mở Đạo lần ba mà vớt kẻ hữu phần, tránh khỏi nơi buộc ràng khổ phạt. Ai hữu phước đặng để chân vào, kẻ vô phần phải bị tà yêu cám dỗ”.
Chính Thanh Tâm Tài Nữ, theo lời thuật lại của Chức sắc tiền bối thì Cô là một vị Nữ Tiên, có đầu kiếp tại Việt Nam, nhưng Cô mất sớm lúc 18 tuổi do chết đuối nơi bãi biển Vũng Tàu. Cô được lịnh Ðức Phật Mẫu, hiệp cùng Cửu Vị Tiên Nương, giáng cơ dạy Ðạo.
Cô cho rằng những người sinh vào thời Tam Kỳ Phổ Độ nầy là có duyên phần, gặp được Đức Chí Tôn giáng huyền cơ mở Đạo Cao Đài, nhứt là được thọ truyền bí tích của nền Đại Đạo, và được hưởng đại ân xá kỳ ba nầy. Nên Cô khuyên hãy cố gắng lập công bồi đức để sau nầy về hội hiệp cùng Thầy.
Trong một Ðàn cơ lúc 21 giờ đêm ngày 12 tháng 1 năm Quý Dậu (dl 6-2-1933), giáng dạy như sau:
Em đã nói trước với quý anh rồi, có lạ chi dòng luân luân chuyển chuyển mà da díu bận lòng. Em đến giúp nên cơ Ðạo đặng báo nghĩa cho Chí Tôn.
Em nghe Chí Tôn nơi nầy, chạy theo nơi nầy không gặp. Em nghe nói nơi khác, chạy nơi khác, cũng không gặp.
Hỏi ra thì em khiếm khổ hạnh nên khó phép thấy Người, nên quyết luân hồi chịu khổ hạnh hầu gặp cho đặng, kẻo ức. Thương quá đỗi thương mà chưa từng thấy mặt.
Thưa mấy chị,
Ðã may duyên gần gũi hình bóng của Người, ráng đặng gặp Người, kẻo sau ăn năn uổng lắm!
Cái oan nghiệt kiếp sanh đáng ghê sợ chưa bằng không gặp mặt Chí Tôn, vì lẽ ấy mà biết bao nhiêu Tiên, Phật hạ trần chịu khổ. Xin mấy chị nghe:
“Phải đủ căn sanh mới thấy Trời, Ai ai đừng tưởng dễ như chơi. Nghe danh như chất chồng bên gối, Cổ Phật không duyên khó gặp Người”.
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp,
Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ.
(Di Lạc Chơn Kinh).
柏 棹
Bá: Hay Bách, là loại cây gỗ sử dụng tốt dưới nước, nên thường dùng để đóng thuyền, gọi là thuyên bách. Trạo: Chèo.
Bá trạo là người chèo thuyền.
Trong Tuồng Hát Chèo Thuyền của Ban Tổng Trạo Toà Thánh, Bá trạo là người chèo thuyền Bát nhã, gồm 12 em nhỏ, tay cầm mái chèo, mặc đồ như thủy thủ, tượng trưng cho Thập Nhị Thời Quân Hiệp Thiên Đài.
Truyền Nhị đệ tuân theo,
Hô Bá trạo tiến thuyền lai tốc nhập.
(Tuồng Hát Chèo Thuyền).
Bá vơ là không đúng, không chứng cứ, không có nguồn gốc.
Bá vơ còn có nghĩa là không vào đâu cả, không đúng, không phù hợp với yêu cầu, tính chất nội dung vụ việc.
Thánh giáo Đức chí tôn có dạy: Cũng như các con bề trong cấu xé, tâm một nơi đức một ngả, mà ham đi dìu dắt người ngoài, biểu hiệp đồng sao được. Trong chưa thành, ngoài dầu có làm chi cũng chuyện bá vơ thêm hại.
Lại đây Ta hỏi hết lòng thờ,
Hay đến cầu xin hỏi bá vơ.
(Đạo Sử).
霸 王
Bá: Nước lớn nhứt trong các nước chư Hầu. Vương: Vua, cai trị cả thiên hạ.
1.- Bá Vương, như chữ “Vương Bá”, là hai cách cai trị dân của người xưa. Nghiệp Bá thường lấy sức mạnh để củng cố uy quyền, như các chư hầu, còn Vương dùng nhân nghĩa để cai trị, như các vua Hạ Võ, Thương Thang, Văn vương…
Thạnh trị bá vương toan ngảnh mặt,
Khuynh nguy dân chúng thảy oằn vai.
(Thơ Cao Mỹ Ngọc).
2.- Bá Vương, còn là một xưng hiệu của Hạng Võ nước Sở, nên thường gọi là Sở Bá Vương Hạng Võ.
Bá Vương mãi giữ tánh ngang tàng,
Chẳng khứng nghe lời Phạm gián can.
(Thơ Chơn Tâm).
Xàm: Nói nhảm, nói không thiết thực, không ích lợi cho người nghe.
Bá xàm là chuyện tầm bậy, không xác thực, nhảm nhí, thiếu căn cứ, không ích lợi gì.
Thí dụ: Anh ta nói chuyện bá xàm mà mầy cũng nghe và tin được à?
Công là hay học chuyện bá xàm,
Trăm bánh trái, bao hàm nhà cửa.
(Phương Tu Đại Đạo).
1.- Bà là người đàn bà thuộc thế hệ sinh ra cha hay mẹ mình, hoặc nói chung sinh ra ông bà mình.
Như: Bà nội, bà ngoại, ông bà tổ tiên.
Lòng thành thương tưởng ông bà,
Nước nguồn cây cội mới là tu my.
(Kinh Sám Hối).
Ông bà cha mẹ đương còn,
Phải lo báo đáp cho tròn hiếu trung.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
2.- Bà là tiếng gọi chung người vợ, trái với ông là gọi người chồng.
Như: Của ông công bà, ông ăn chả bà ăn nem.
Hễ là vào đạo vợ chồng,
Hư nên đều có của ông công bà.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Rủi để bước cửa công là khó,
Phần nhiều xem dễ khó tại nơi bà.
(Phương Tu Đại Đạo).
3.- Bà là tiếng gọi chung những người đàn bà Thần Thánh anh linh, hoặc những người có phẩm vị, đạo đức, đáng được tôn kính.
Như: Bà Thiên Hậu, Bà Chúa Xứ, Chín Bà (tức Cửu Vị Tiên Nương Diêu Trì Cung).
Thu cúc hứng sương khách kiếm mùi,
Chín Bà cùng Mẹ đến chung vui.
(Đạo Sử).
Bà: Chỉ người đàn bà lớn tuổi. Chằn: Một loài yêu quái trong truyện cổ tích.
1.- Bà chằn là chằn tinh, một loại yêu quái trong truyện cổ tích thường nói đến.
Như: Bà chằn trong Thạch Sanh Lý Thông là một loài yêu quái.
Hễ trừ yêu thì triệu bà chằn,
Trị chồng dữ băng hăng méc mẹ.
(Phương Tu Đại Đạo).
2.- Bà chằn còn có nghĩa là người đàn bà hung dữ, độc ác và tâm địa xấu xa.
Bà chằn còn dùng để chỉ kẻ có gương mặt lem luốc, xấu xí. Như: Bà ấy là mụ bà chằn.
Dung chớ lấn chồng làm mụ chị,
Hạnh đừng hiếp trẻ giống bà chằn.
(Bát Nương Giáng Bút).
Bà: Tiếng gọi chung những người đàn bà Thần Thánh anh linh. Nguyệt: Mặt trăng.
Bà Nguyệt, do chữ “Ông tơ Bà nguyệt”, dùng để chỉ vị Thần có nhiệm vụ kết hợp việc hôn nhân.
Ông tơ bà nguyệt khéo xe duyên,
Buộc chặt hai người nặng kiếp khiên.
(Thơ Thiên Vân).
1.- Bả là hỗn hợp thức ăn với thuốc độc dùng làm mồi để lừa giết thú vật nhỏ. Như: Bả chuột, bả chó.
Bả, nghĩa bóng dùng để nói vật gì có thể đánh lừa, cám dỗ hoặc lôi kéo vào chỗ nguy hiểm, xấu xa, hư hỏng. Như: Bả vinh hoa, bả lợi danh, bả công khanh.
Thánh giáo Thầy có câu: Xôn xao gió bụi, mờ mệt tuồng đời, mồi phú quý bả công khanh, mấy kẻ biết nhuộm nét nâu sồng, lánh cả muôn sự não phiền mà khách trần đều gọi là vinh diệu.
Hứng giọt nhành dương lau tục lự,
Hay chi thua được bả công khanh.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Mùi chua ngọt bả sang hèn,
Ðời chác một điều vụ tiếng khen.
(Đạo Sử).
2.- Bả còn có nghĩa là sợi xe bằng tơ, gai, dùng để may áo, buộc điều, đan lưới. Như: Áo bả hài gai, đánh bả.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Ðời chuộng sang vinh, Ðạo chuộng khổ hạnh, Ðời ham trược phú, Ðạo giữ thanh bần, lên xe xuống ngựa chốn phồn hoa là cảnh áo bả hài gai nơi tịnh xá, tương dưa thanh đạm chốn thiền môn, để mặc miếng mỹ vị cao lương ngoài quán tục.
Để cho con đặng tấm thân lành,
Chẳng kể già áo bả quần manh.
(Phương Tu Đại Đạo).
3.- Bả còn là tiếng dùng để chỉ bà ấy.
Như: Mẹ anh ấy đang ở nhà, bả là người rất hiền hậu, Vợ tôi đi chợ, chút xíu bả sẽ về.
Chồng đố dám một lời nạnh hẹ,
Chọc bà già bả chưởi mẹ cha.
(Phương Tu Đại Đạo).
Sợ bả gan chưởi tới ông bà,
Lấy trớn chưởi cả nhà ông vải.
(Phương Tu Đại Đạo).
Hay “Bả vinh huê”.
Bả: Chỉ cái có sức cám dỗ, hay lừa người ta rơi vào nơi xấu xa nguy hiểm. Vinh hoa (vinh huê): Vẻ vang đẹp đẽ.
Bả vinh hoa hay “Bả vinh huê”, là tiếng dùng để chỉ món mồi giàu sang vinh hiển.
Thánh Giáo Đức Chí Tôn có dạy: Mùi chung đỉnh, bả vinh hoa có khác chi ngọn cỏ phơi sương, vừng mây giữa gió. Nét hạnh đức là phương hay để dìu dắt các con bước lên con đường Cực Lạc, tránh khỏi đoạ tam đồ.
1.- Bả vinh hoa:
Hùng suy đã lắm thảm buồn vui,
Cái bả vinh hoa hưởng đủ mùi.
(Đạo Sử).
2.- Bả vinh huê:
Cái bả vinh huê đời rối rắm,
Nguồn đào thong thả đã là đâu?
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Bã là nói vật gì đã lấy hết nước cốt chỉ còn lại phần xác khô. Như: Bã mía, bã trầu, bã chè, cặn bã.
Bã, nghĩa rộng dùng để chỉ cái cách khô khan, nhạt nhẽo, rời rạc. Như: Người bã, miệng bã.
Lời khen miệng thế quý chi đâu,
Bất quá như son lộn bã trầu.
(Đạo Sử).
Bạ có nghĩa gặp là bậy, làm không chọn lựa, không cân nhắc kỹ là nên hay chẳng nên làm.
Như: Bạ đâu ngồi đấy, bạ việc gì cũng bắt chước, bạ đâu nói đó, bạ đâu nằm đó.
Phàm quý lạ thì là trọng giá,
Vì cớ nào ném bạ bỏ thừa.
(Phương Tu Đại Đạo).
1.- Bác là anh của cha hoặc chị dâu của cha.
Như: Bác gái, ông nầy là bác ruột, người nầy là bà bác họ, con chú con bác.
Thuận cùng chú bác cậu cô,
Bà con chòm xóm ra vô khiêm nhường.
(Kinh Sám Hối).
Cô bác gái mất ăn xúm chưởi,
Bị khô mồm miệng lưỡi đều khua.
(Phương Tu Đại Đạo).
2.- Bác là tiếng gọi người dưng, ngang vai hay bạn thân, hoặc người là một nghề gì.
Như: Tôi và bác đồng tuổi nhau, bác nông phu, phu xa, bác kỹ sư.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Thử hỏi nếu bác nông phu, người thợ dệt vải, kẻ trồng rẩy, nhà kỹ nghệ, giới thợ thuyền đều ngưng hẳn hoạt động thì đồng tiền của ta còn có ích gì cho ta nữa không, và đời sống của ta sẽ ra thế nào?
Đào non liễu thắm thuyền êm bến,
Cá nước duyên lành bác tặng thi.
(Thơ Chơn Tâm).
3.- Bác 駮 là không ưng, không y, bỏ đi, bắt bẻ.
Như: Ngọc Hư cung bác luật, bộ hình bác cái án của tỉnh đã xử, bác bỏ điều đã biểu quyết, bài bác.
Thánh giáo Thầy có câu: Than ôi! Ðiều vui sướng lao trần chẳng ai buộc mà nhiều kẻ tìm tới, mối đạo đức trau thân là phương châm thoát tục mà lắm kẻ trốn lánh, bài bác mối Ðạo Trời, khua môi uốn lưỡi, mà tưởng cho mình hơn đặng các phẩm nhơn sanh, chớ chẳng dè là một hình phạt rất nặng nề đã chực chúng nó nơi chốn A Tỳ.
Nhưng có một điều là Ngọc Hư Cung bác luật, Lôi Âm Tự phá cổ, nên tu nhiều mà thành ít.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
4.- Bác 博 là rộng, không dùng một mình. Như: Bác ái, uyên bác, bác lãm quần thi, nhà bác học.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Một người thì đem tài bách chiến và khí phách anh hùng để phò vua vực nước, một người thì dụng văn chương bác lãm để giúp cho nước trị dân an, hai Ðấng ấy chẳng phải vì tu hành mà chỉ nhờ nơi tâm chí cao siêu nên thủ đắc Thiên vị.
Tính cha đã thông minh mẫn đạt,
Con chắc là bác lãm quần thi.
(Phương Tu Đại Đạo).
5.- Bác 博 là cờ bạc, đánh bạc. Như: Đổ bác.
Xem: Đổ bác.
Trường đổ bác cũng đừng léo tới,
Phường trăng hoa hát bội khá từ.
(Kinh Sám Hối).
Vui nơi đổ bác là vui khổ,
Vui thói tà gian lụy trọn đời.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
博 愛
Bác: Rộng rãi. Ái: Yêu thương.
Bác ái là tình yêu trải rộng không những đối với bà con thân thích mà với cả mọi người.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có đoạn dạy: Bác ái là hay thương xót sanh linh hơn thân mình. Cho nên kẻ có lòng bác ái coi mình nhẹ hơn mảy lông, mà coi thiên hạ trọng bằng Trời Ðất.
Câu tư dục biến ra bác ái,
Nghiệp oan khiên đổi lại hồng ân.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Sửa bác ái ra nên câu kệ,
Chế từ bi như thể bài kinh.
(Thơ Hộ Pháp).
博 覽
Bác: Rộng rãi. Lãm: Xem.
Bác lãm, đồng nghĩa với “Triển lãm 展 覽”, là cuộc trưng bày các thứ nông sản, hoá phẩm và hoặc các thứ đồ về công kỹ nghệ để công chúng xem.
Bác lãm quần thi (Thư) 博 覽 群 書 là chỉ người tài giỏi đã hết xem các loại kinh sách.
Tính cha đã thông minh mẫn đạt,
Con chắc là bác lãm quần thi.
(Phương Tu Đại Đạo).
駁 律
Bác: Không chấp nhận. Luật: Luật lệ.
Bác luật là bác bỏ luật pháp đã cũ kỹ thời xưa vì không còn thích hợp.
Thánh giáo Đức Chí tôn có câu: Nguyên từ buổi bế đạo, tuy Chánh pháp ra cũ mặc dầu, chớ kỳ trung thọ đắc kỳ truyền. Luật lệ tuy cũ chớ đạo vẫn như nhiên. Do công đức mà đắc đạo cùng chăng. Nhưng có một điều là Ngọc Hư Cung bác luật, Lôi Âm Tự phá cổ, nên tu nhiều mà thành ít.
Ngọc Hư Cung bác luật, Lôi Âm Tự phá cổ; ấy vậy Cựu Luật thì Ngọc Hư Cung đã biếm bác, còn Cổ Pháp thì Lôi Âm Tự đã phá tiêu…
(Pháp Chánh Truyền).
1.- Bạc là một thứ kim loại quý, sắc trắng, lấy ở mỏ, người ta dùng làm đồ trang sức. Như: Vàng bạc.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có đoạn: Theo thế thường thì giàu đổi bạn sang đổi vợ, con người khi gặp nơi đắc dụng được kẻ biết trọng đãi kính nể mình, ban cho vàng bạc đủ đầy gái tốt hầu hạ sớm khuya, yến tiệc linh đình, tước cao lộc quý thì cho anh em ruột cũng quên được, vợ mình tấm mẳn cũng dứt tình, chúa cũ cũng không màng huống chi là kết nghĩa giao bằng hữu.
Lọc lừa chớ để đen pha trắng,
Lui tới đừng cho bạc lộn chì.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Để mặc đời thị thị phi phi,
Chưa ai rõ trong chì có bạc.
(Phương Tu Đại Đạo).
2.- Bạc là kim loại bạc, dùng làm tiền tệ. Như: Tiền bạc, bạc đồng, bạc giấy, bạc lạng.
Thánh giáo Đức Chí Tôn trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có đoạn dạy: Thầy chẳng khi nào dụng những kẻ ấy vào nền Ðạo bao giờ. Than ôi! Tiền lớn bạc nhiều, món ngon vật quý, hay xiêu lòng phàm phu. Của bất nghĩa kẻ trần còn chẳng chịu dùng thay!
Thi ân hậu bạc ngàn khó sánh,
Rán tập thành sửa tánh từ hoà.
(Kinh Sám Hối).
Không bạc túi, dầu tròn cũng méo,
Sẳn tiền lưng, thật dở ra hay.
(Thơ Huệ Giác).
3.- Bạc là chỉ sắc trắng, giống như màu kim loại bạc. Như: Bạc đầu, tóc bạc, da mồi tóc bạc.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Đã hai mươi sáu năm họ (chỉ người trong Phạm Môn) chịu khổ nhọc đã nhiều. Hy sinh từ tóc xanh đến bạc đầu, lao tâm lao lực.
Khuôn đời chưa dễ tạo nên hình,
Tóc bạc còn mờ lối nhục vinh.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Tranh khoe nguyệt rọi làu sông Vị,
Mây toả sương phơi bạc đảnh Tần.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
4.- Bạc 薄 là mỏng, ít, tệ, trái nghĩa với hậu. Như: Mệnh bạc, bạc bẽo, bạc đức, bạc nhược, bạc như vôi.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn dạy: Hại thay! Loài người bạc nhược thiếu đức tin mà phải chịu muôn lỗi ngàn tội đối với Ðức Chí Tôn.
Nỗi mình tâm sự tỏ cùng ai,
Mạng bạc còn xuân uổng sắc tài.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Nhiều cơn sóng dập gió thêm dồi,
Cái kiếp gì xem bạc quá vôi.
(Đạo Sử).
Bạc: Mỏng manh, tệ, hèn kém.
Bạc bẽo là tệ bạc, không trung thành.
Thánh giáo bằng Pháp Văn của Đức Chí Tôn được Hội Thánh dịch ra Việt Ngữ có câu: Thầy chỉ định con lãnh một vai trò bạc bẽo mà nhân đạo. Con vì tâm tình cao thượng mà cứu vãn sự sụp đổ của một dân tộc đã hấp thụ một nền văn minh tối cổ.
Phải nào bạc bẽo hỡi em ôi!
Vì phận nghĩa kia xử khó rồi.
(Thơ Thượng Sanh).
Thiên hạ diễn bao tuồng bạc bẽo,
Thế nhân được mấy thuở vàng son.
(Thơ Hoài Tân).
Bạc chứa: Ky cỏm để tích chứa bạc. Vàng chôn: Nhịn ăn mà chôn giấu vàng.
Bạc chứa vàng chôn ý muốn nói không dám tiêu xài để tiền và vàng bạc đem chôn giấu.
Cơm ngày hai bữa vừa no dạ,
Bạc chứa vàng chôn chẳng ích gì.
(Đạo Sử).
薄 待
Bạc: Mỏng, trái với hậu là dầy. Đãi: Đối xử.
Bạc đãi là đối xử tồi tệ, có ý khinh dể rẻ rúng. Phản nghĩa của bạc đãi là hậu đãi.
Thánh Giáo Bát Nương Diêu Trì Cung có câu: Làm đạo có khổ mới có công, công do khổ hạnh thì mới xứng với cõi hư vô. Như Phật Quan Âm buổi nọ, có bị đời bạc đãi mới đắc vị được.
Quyết bỏ ngôi Chí Tôn xuống lập Ðạo, lại bị các con bạc đãi, biếm nhẻ, xua đuổi, bắt buộc đến đỗi phải chịu cho các con giết chết!
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
Bạc: Màu trắng, đã chuyển thành màu trắng vì tuổi già. Đầu: Phần trên hết trong thân thể người.
Bạc đầu là mái tóc bạc trắng cả.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Đã hai mươi sáu năm họ chịu khổ nhọc đã nhiều. Hy sinh từ tóc xanh đến bạc đầu, lao tâm lao lực.
Bạc đầu non chịu lằn sương nhuộm,
Nhăn mặt nước chờ trận gió qua.
(Đạo Sử).
Nhẫng là đeo thảm chác sầu,
Tóc xanh cho tới bạc đầu cũng in.
(Nữ Trung Tùng Phận).
薄 命
Bạc: Mỏng, mong manh. Mệnh: Số mệnh.
Bạc mệnh là mạng số mỏng manh, bạc bẽo.
Truyện Kiều của Nguyễn Du có câu: Đau đớn thay phận đàn bà! Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
Tô Thức có nói rằng: Tự cổ giai nhân đa bạc mệnh 自 古 佳 人 多 薄 命, nghĩa là tự nghìn xưa giai nhân đều bạc mệnh.
Chừng cơn phấn lợt hương tàn,
Núm mồ bạc mệnh bên đàng cỏ chôn.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Hay “Bạc phận”.
Bạc: Mỏng, mỏng mành. Phần (phận): Số phần, chỉ về số mạng dành cho mình.
Bạc phần, như chữ “Bạc phận 薄 分”, là số mạng mỏng mảnh, hẩm hiu.
Xem: Bạc phận.
Trai thì chinh chiến đời phiêu bạt,
Gái lại tùng phu kiếp bạc phần.
(Thơ Thanh Hương).
薄 分
Bạc: Mỏng mành. Phận: Phần số, những gì số mệnh đã dành cho mình.
Bạc phận là phận mỏng, tức là số phần gặp những điều không may.
Như: Hồng nhan bạc phận.
Sổ hồng phấn ghi câu bạc phận,
Giá ngàn vàng thử trận hơn thua.
(Phù Kiều Hận Sử).
薄 福
Bạc: Mỏng, xấu. Phước (phúc): Những điều tốt đẹp do trời ban cho.
Bạc phước, như chữ “Bạc phúc 薄 福”, là phước mỏng, tức thiếu về phước đức, thiếu về may mắn.
Trong Thuyết Đạo của Đức Thượng Sanh có câu: Vùng Thánh Ðịa Tây Ninh nầy là nhà chung của nhơn sanh, là nơi được Ðấng Chí Tôn che chở dưới bóng từ bi, họp tất cả những tâm hồn biết tin cậy nơi lượng háo sanh của Ðức Ngài, để gieo rắc tình thương yêu vô lượng, xoa dịu nỗi đau khổ của kẻ vô cùng bạc phước, dù ở trong cảnh ngộ nào, cũng là con cái chung của Ðại gia đình mà Ðức Ngài là Ðại Từ Phụ.
Càng bạc phước càng than con dại,
Lo tảo tần mảy mạy dưỡng nuôi.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Hỏi đon thử lời nguyền buổi trước,
Gẫm thân nàng bạc phước như ta.
(Nữ Trung Tùng Phận).
薄 福 無 緣
Hay “Vô duyên bạc phước”.
Bạc phước (phúc): Phước mỏng, thiếu phước đức. Vô duyên: Không có duyên phần, xấu số.
Bác phước vô duyên là người thiếu phước và không duyên phần nên số phận dành cho toàn những chuyện không may mắn.
Thánh giáo Đức Chí Tôn dạy Ngài Hộ Pháp có câu: Tắc! Con nghe Thầy dặn: Con ngày nay đã cầm sanh mạng của Đạo nơi tay, con lại đủ quyền năng đạo đức với nghị lực tinh thần, con phải có dạ yêu thương những người vô duyên bạc phước.
Tôi nay bạc phước vô duyên,
Không nhà không cửa gạo tiền cũng không.
(Thơ Hộ Pháp).
薄 情
Bạc: Mỏng. Tình: Lòng yêu mến.
Bạc tình cũng như chữ “Bạc nghĩa 薄 義”, tức là nói người ăn ở bạc bẽo, không có tình nghĩa.
Xem: Bạc nghĩa.
Trời hằng thương mến lũ nhơn sanh,
Giận nỗi cưu cưu ở bạc tình.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Bạc tình chi lắm hỡi ai ơi!
Bảy tháng chung vui đã mất rồi.
(Đạo Sử).
Chuốt trau đẹp dạng tốt hình,
Ngữ ngôn dụng thói bạc tình gọi khôn.
(Bát Nương Giáng Bút).
薄 情 背 義
Bạc tình: Ăn ở bạc bẽo, không có tình cảm. Bội nghĩa: Phản bội lại ơn nghĩa.
Bạc tình bội nghĩa là nói thái độ của kẻ ăn ở bạc bẽo, phản bội lại tình nghĩa của người.
Dập liễu vùi hoa không chút thẹn,
Bạc tình bội nghĩa có ra chi.
(Thơ Chơn Tâm).
Bạc tóc: Mái tóc bạc trắng, chỉ tuổi đã già. Da mồi: Da người già trổ lốm đốm những chấm màu nâu nhạt như mai con đồi mồi.
Bạc tóc da mồi, như câu “Tóc bạc da mồi” chỉ người già, đầu đã bạc, da đã trổ lốm đốm như da đồi mồi.
Thương bạc tóc hỡi còn thương dại,
Thương da mồi còn phải thương ngu.
(Bát Nương Giáng Bút).
Bạc: Kim loại màu trắng, thường dùng để mạ hay làm đồ trang sức. Vàng: Kim loại quý, có màu vàng, làm đồ trang sức.
Bạc vàng, như chữ “Vàng bạc”. là bạc và vàng, thường dùng để chỉ những thứ quý giá.
Xin khá nhớ Tiên phàm khác tánh,
Đá đất nào dám sánh bạc vàng.
(Bát Nương Giáng Bút).
百 年
Bách (Bá): Trăm. Niên: Năm.
Bách niên, bởi chữ “Bách niên giai lão 百 年 皆 老”, tức là lời chúc vợ chồng ăn ở với nhau hoà hợp, sống lâu đến trăm tuổi.
Bỏ cuộc bách niên tròn bách sự,
Lên xe thiên cổ hưởng thiên phần.
(Thơ Hoàn Nguyên).
Vàng son tô điểm màu song hỷ,
Tài sắt vun bồi chữ bách niên.
(Thơ Hoài Tân).
1.- Bạch là bày tỏ, nói, thưa.
Như: Ăn chưa sạch bạch chưa thông, bạch Thầy con có lỗi, xin Thầy tha thứ.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Bạch Ngài (Lý Giáo Tông), sự bí mật ấy Ngài có thể cho tôi biết đôi chút đặng tôi mới an tâm, an trí được.
Mong tầm Tiên học phép huờn hồn,
song sợ học phép mầu, Tiên chẳng bảo,
Muốn bạch Phật hỏi phương hiện thế,
lại e phương cấm, Phật không truyền.
(Tuý Sơn Vân Mộng).
2.- Bạch 白 là màu trắng. Như: Hắc bạch, bạch câu quá khích, bạch chủng (Giống người da trắng).
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Bạch chủng giờ phút này, đương làm chúa thiên hạ vì văn minh của họ đến mức cao thượng, cũng như các chủng tộc kia vậy, đã đạt đến một nền văn minh khoa học tối yếu, tối trọng, huyền vi vô biên.
Bạch Y Quan mở đàng rước khách,
Cõi Kim Thiên nhẹ tách Tiên xa.
(Kinh Tận Độ).
Hắc bạch phú cho vầng nhựt nguyệt,
Thị phi chờ thoát bóng quang âm.
(Thơ Huệ Giác).
3.- Bạch 白 là sạch sẽ. Như: Thanh bạch, tấc lòng trinh bạch, tuyết bạch giá trong.
Thánh giáo Thầy có câu: Thầy cũng hoan tâm nắm máy huyền vi, mong rằng các con sẽ tận lực tận tâm đắp vững nền Ðạo đặng hoàn toàn mà dìu sanh chúng thoát khỏi tội tình, cùng nhau đỡ nâng đem lên con đường Cực Lạc, vẹt ngút mây xanh, trông vào lối thanh bạch thiêng liêng là chỗ từ xưa các Chí Thánh đã tổn lắm công phu mà chưa mong để mình đến được.
Thanh bạch một lòng vì đạo hạnh,
Có khi lóng đục bởi nhờ phèn.
(Đạo Sử).
4.- Bạch 白 là rõ ràng, sáng sủa. Như: Minh bạch, thanh thiên bạch nhật.
Thánh giáo Thầy có câu: Lằn tang thương gần khởi, đường đạo đức chớ dần dà, công vẹt ngút mây xanh của các con sẽ làm cho sáng sủa bạch minh, cho bước đàng sau nầy do theo dấu ấy mà lần đến cõi vô ưu, để bước khỏi lối nhọc nhằn ban sơ khai dẫn.
Ấy vậy nên người làm Quan, lúc nào cũng phải trau giồi đức thanh liêm cho được rõ ràng minh bạch để nêu gương lành cho dân bắt chước.
(Giáo Lý).
白 籐 江
Bạch Đằng Giang là sông Bạch Đằng, một con sông thuộc huyện Thuỵ Nguyên, tỉnh Kiến An bây giờ.
Hưng Đạo Vương sai Nguyễn Khoái lén dẫn binh lên mé thương lưu sông Bạch Đằng, dùng gỗ đẻo nhọn có bịt sắt đóng khắp giữa giòng sông, rồi phục binh chờ thuỷ triều lên thì đem binh ra khiêu chiến. Chiến thuyền của quân Nguyên do Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp xông vào đánh, quân Nguyễn Khoái quay thuyền chạy, nhử cho thuyền giặc qua khỏi chỗ đóng cọc.
Đến lúc thấy thuỷ triều xuống thì quay binh lại hết sức mà đánh, kế có đại quân Trần Hưng Đạo tiếp đến. Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp thấy quân thế nhà Trần quá mạnh, bèn quay thuyền chạy trở lại. khi chạy đến khúc sông có đóng cọc thì thuỷ triều đã rút xuống, thuyền của quân Nguyên vướng mắc phải cọc, đổ nghiêng đổ ngửa, đắm vở mất nhiều. Quan quân nhà Trần thừa thắng đánh cực hăng, quân Nguyên chết như rạ, máu loang đỏ cả khúc sông, tướng Nguyên là Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp đều bị bắt.
Dưới Hưng Đạo kiếm trăm đầu rụng,
Trên Bạch Đằng Giang vạn xác sình.
(Thơ Thành Toại).
白 頭
Bạch: Bạc, trắng. Đầu: Phần trên hết của thân thể người hoặc vật.
Bạch đầu là đầu bạc, chỉ người già.
Thánh giáo Đức Nhàn Âm Đạo Trưởng viết: Cổ nho có câu: Thanh sơn nguyên bất lão, vị tuyết bạch đầu, Lục thuỷ bổn vô sầu, nhơn phong sô diện. Nghĩa là: Núi kia chẳng phải già mà bị tuyết đóng nên bạc đầu, Nước kia chẳng phải sầu mà bị gió thổi nên nhăn mặt.
Trường xuân quạnh quẽ đưa ngưu đẩu,
Nẻo hoạn nghinh ngang điểm bạch đầu.
(Quyền Giáo Tông Giáng).
Hay “Bạch Khởi”.
Bạch Khỉ, còn đọc là Bạch Khởi 白 起, là người đời Chiến Quốc, làm đại tướng cho Chiêu Tương Vương nươc Tần, có tài dụng binh, đã từng đánh lấy 70 thành, được phong làm Võ An Quân.
Bạch Khởi là người hiếu sát, khi đánh thắng Triệu Quát tại Trường Bình, quân Triệu đầu hàng hơn 40 vạn. Bạch Khởi sợ hàng binh nổi loạn, bày mưu cho binh Tần đội vải trắng, nửa đêm đánh vào hàng binh của Triệu, thấy ai không đội vải trắng giết sạch hơn 40 vạn quân trong một đêm.
Sau Bạch Khởi bị gièm pha, phải chịu tam ban triều điển chết một cách thảm thiết.
Thạnh bỏ suy đương lao khổ phận,
Cũng như Bạch Khỉ đến hôn mê.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Do điển nhà Châu, vua Châu Vương có nuôi một con khỉ trắng (Bạch khỉ) rất khôn ngoan, nghe được tiếng người, làm trò khiến vua tức cười mà quên buồn.
Trong triều có quan Thừa tướng là Chu Ôn có tham vọng, nhiều mưu lược, lại được vua Châu Vương tin dùng. Thừa Tướng cấu kết với một số gian thần âm mưu thí vua chiếm đoạt ngôi báu.
Khi Tân vương lên ngôi bèn truyền lịnh đem Bạch khỉ đến làm trò để giúp vui, nhưng con Bạch khỉ không chịu nhảy múa, đứng trơ trơ nhìn Tân vương. Tân vương tức giận định truyền quân sĩ đánh, nhưng thình lình Bạch khỉ nhảy đến quào quấu Tân vương đến đỗi nằm lăn dưới gạch. Bạch khỉ thừa dịp chạy thoát nhanh về chốn sơn khê.
Để nêu gương loài vật biết việc chánh tà, tỏ lòng trung nịnh, nên Đức Hộ Pháp dạy cho vẽ một bức tranh trên hành lang Báo Ân Từ về phía nam phái lấy tích “Bạch khỉ đến sơn khê”.
Châu Vương đã khéo nuôi Bạch khỉ,
Lúc Chu Ôn tiếm vị xưng vương.
Bảo múa, nhảy cắn trọng thương,
Vật vì chủ cũ, tìm đường sơn khê.
(Báo Ân Từ)
白 玉
Bạch: Màu trắng. Ngọc: Loại đá quý báu có màu sắc sáng bóng rất đẹp.
1.- Bạch ngọc là loại ngọc màu sáng trắng, một loại ngọc quý báu.
Như: Đôi bông tai cẩn bạch ngọc.
Cao Ðài tá thế đến phàm gian,
Bạch Ngọc Huỳnh Kim cũng chẳng màng.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
2.- Bạch Ngọc, nói tắt của “Bạch Ngọc Kinh”, một toà Thiên các của Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế ngự, làm bằng ngọc màu trắng, sáng loà rực rỡ.
Xem: Bạch Ngọc Kinh.
Trên Bạch Ngọc Chí Tôn cao ngự,
Giữa Tây phương nắm giữ Thiên điều.
(Kinh Thế Đạo).
Nguyện các Đấng đương chầu Bạch Ngọc,
Giúp thông minh lảu thuộc văn từ.
(Kinh Thế Đạo).
Ðạo hạnh khuyên con gìn tánh đức,
Cửa Cung Bạch Ngọc đã gần khai.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
白 玉 鐘
Bạch Ngọc: Ngọc trắng. Chung: Chuông.
Bạch ngọc chung là chuông Bạch Ngọc.
Bạch Ngọc chung là một cái chuông lớn, bên Phật giáo gọi là Hồng chung, một loại chuông lớn, có lòng rỗng, thành cao, miệng loa tròn, thường có quai để treo trên giá, tiếng chuông phát ra trong và ngân dài.
Trong đạo Cao Đài nơi Toà Thánh Tây Ninh hay các Thánh Thất địa phương đã hoàn chỉnh, Đại Hồng Chung được treo trên giá chuông, miệng úp xuống và đặt tại lầu chuông, gọi là Bạch Ngọc Chung Đài 白 玉 鐘 臺, nên người trong Đạo còn gọi Đại Hồng Chung là “Bạch Ngọc Chung 白 玉 鐘” (hay chuông Bạch Ngọc).
Đại Hồng Chung là một pháp bảo thiêng liêng, khi dọng âm thanh vang xa, có sức lan toả rất lớn đến đời sống tâm linh của con người chung quanh và mọi cảnh giới. Tiếng chuông, theo kinh điển, có thể thấu đến cõi Phong đô, chúng sanh nào bị đọa nơi địa ngục nhờ nghe tiếng chuông này mà sám hối, liền được giải thoát. Vì thế Đại Hồng Chung còn được gọi là “U Minh chung 幽 暝 鐘” (hay chuông U Minh).
Chính vì vậy, trong đạo Cao Đài bài Kệ Chuông Đại, Tiểu Đàn có câu:
|
Thần chung thinh hướng phóng phong đô, |
|
神 鐘 聲 向 放 酆 都 |
|
Địa Tạng khai môn phóng xá cô. |
|
地 藏 開 門 放 赦 辜 |
|
Tam Kỳ vận chuyển kim quang hiện, |
|
三 期 運 轉 金 光 現 |
|
Sám hối âm hồn xuất u đồ. |
|
懺 悔 陰 魂 出 幽 途 |
Giải nghĩa:
|
Tiếng chuông thiêng liêng hướng đến cõi Phong đô.
Đức Địa Tạng Vương mở cửa phóng thích các tội hồn.
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ vận chuyển làm hiện ra lằn Kim quang.
Lằn Kim quang đó làm con đường để những âm hồn ở Phong đô sám hối được ra khỏi cõi tối tăm (U đồ) |
Trên quai và thành bất kỳ một quả Hồng Chung nào đều được đúc những hình ảnh hoặc trang trí hoa văn tượng trưng cho nhiều ý nghĩa sâu sắc. Người đúc chuông ngày xưa có quan niệm rằng muốn đúc chuông kêu to, thì phải đúc hình con bồ lao trên chóp chuông để làm cái quai.
Bồ lao 蒲 牢 theo một số tài liệu, còn gọi là “Đồ lao 徒 劳”, là một giống rồng và là một trong số chín con rồng (Long sinh cửu tử). Theo truyền thuyết, bồ lao thích âm thanh lớn và thích "gầm rống", và vì thế theo truyền thống được đúc trên quai chuông đặt ở nhiều nơi, như tại Trung Quốc, Việt Nam, và nó được sử dụng như là một cái quai treo chuông.
Lời chú trong bài phú của Ban Cố có chép rằng: Giữa biển có một loại cá, gọi là cá kình rất lớn, trong bờ gần biển có một loại thú gọi là bồ lao. Con bồ lao rất sợ cá kình. Mỗi lần cá kình lội vào bờ để đánh bồ lao thì bồ lao kêu rống to lên. Vì thế, muốn làm chuông kêu to thì người ta đúc con bồ lao ở trên đỉnh chuông và chày đánh chuông được chạm hình cá kình, gọi là chày kình.
Bạch Ngọc Chung chấn động cõi Trần ai,
Rước khách đến nhập cung Bạch Ngọc.
(Hiền Nhơn Lê Văn Trung).
Lôi Âm Cổ khởi Tam Kỳ Hội,
Bạch Ngọc Chung khai thất ức niên.
(Thơ Huệ Phong).
白 玉 鐘 臺
Bạch Ngọc chung: Chuông Bạch Ngọc, tức Đại Hồng chung. Đài: Cái đài cao.
Bạch Ngọc Chung Đài là cái đài cao nằm trước Đền Thánh, bên phía nam phái, trên đó đặt một cái giá treo chuông Bạch Ngọc (Đại Hồng Chung).
Hai bên Hiệp Thiên Ðài, bên mặt thì có Lôi Âm Cổ Ðài, bên tả thì Bạch Ngọc Chung Ðài.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
白 玉 京
Bạch Ngọc: Ngọc trắng. Kinh: Toà nhà lớn, là nơi thường ngự của Đức Thượng Đế.
Bạch Ngọc Kinh là một toà kinh thành ở cõi thiêng liêng là nơi thường ngự của Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế, làm bằng ngọc màu trắng, sáng loà rực rỡ.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, có bài thi mô tả về Bạch Ngọc Kinh như sau:
Một toà Thiên Các ngọc làu làu,
Liền bắc cầu qua nhấp nhoá sao.
Vạn trượng then gài ngăn Bắc Đẩu,
Muôn trùng nhiếp khảm hiệp Nam Tào.
Chư Thần choá mắt màu thường đổi,
Liệt Thánh kinh tâm phép vẫn cao.
Dời đổi chớp giăng đoanh đỡ nổi,
Vững bền muôn kiếp chẳng hề xao.
Ở thế gian những lâu đài được xây dựng bằng vật chất thường bị hư sập, bị hủy hoại theo thời gian, nhưng tại sao Bạch Ngọc Kinh, bằng những loại ngọc quý báu nơi thiêng lại có thể tồn tại vĩnh viễn?
Theo Kinh A Di Đà, Đức Thích Ca Mâu Ni Văn Phật thuyết pháp cũng cho rằng tất cả lầu các nơi Cực Lạc Quốc đều được trang sức cũng bằng bảy thứ báu. Ngài nói: “Tứ biên giai đạo kim, ngân, lưu ly, pha lê hiệp thành. Thượng hữu lâu các, diệc dĩ kim, ngân, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu mã não nhi nghiêm sức chi 四 邊 階 道, 金, 銀, 琉 璃, 玻 璃 合 成. 上 有 樓 閣, 亦 以 金, 銀, 琉 璃, 玻 璃, 硨 磲, 赤 珠, 瑪 瑙 而 嚴 飾 之”, nghĩa là bốn phía có thềm bậc, đường đi do vàng bạc, lưu ly, pha lê hợp thành. Phía trên lại có lầu gác cũng dùng vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não để trang hoàng.
Đức Phật tả bảy thứ báu kể trên chỉ là mượn danh hiệu những vật quý giá nhứt ở cõi thế gian nầy để tạm diễn tả nơi cõi Phật trang nghiêm rực rỡ, chứ mỗi thứ báu nơi Phật quốc đều thù thắng, siêu việt hơn các thứ báu là vật chất trong cõi trần của chúng ta gấp trăm vạn lần.
Theo Cao Đài, Toà Bạch Ngọc Kinh được Đức Hộ Pháp giải thích trong Thiêng Liêng Hằng Sống như sau: “Lại gần tới, còn thấy một vật khác thường quái lạ, nhưng nó là một toà Thiên các đẹp đẽ lắm, màu sắc thay đổi sáng rỡ, mà cả thoại khí bao quanh, làm như thể vận chuyển hình trạng của nó vậy. Lâu đài chớn chở mà nó là con vật sống chớ không như gạch đá chúng ta làm đây, nó vận hành như con vật sống vậy, thay đổi màu sắc vô cùng vô biên. Bí pháp ấy không thể gì tả đặng, ngó thấy đặc sắc lắm.
Nhà cửa ở thế gian nầy là con vật chết, Bạch Ngọc Kinh là con vật sống, biến hoá thay đổi như thể vận hành, xung quanh thoại khí bao trùm, từ nam chí bắc, từ đông qua tây. Khối lửa ánh sáng ấy, chúng ta ngó thấy như mặt trời vậy, mà ánh sáng mặt trời thì nóng nực bực bội, còn ánh sáng nơi Toà Bạch Ngọc Kinh lại dịu dàng và huyền bí lắm, sung sướng khoái lạc lắm!
Tại sao Đài các là con tử vật mà nó sống? Sống là do nơi đâu? Nếu biết thì không lạ gì.
Bạch Ngọc Kinh là do Hỗn Nguơn khí biến hình ra. Hỗn Nguơn khí là khí Sanh Quang của chúng ta đã thở, đã hô hấp, khí để nuôi các sanh vật sống. Ta sống cũng do nơi nó xuất hiện, mà biểu nó làm sao không sống?”.
Tóm lại, Bạch Ngọc Kinh là Toà Thiên các ở cõi thiêng liêng, là triều nghi của Đức Chí Tôn, Ngọc Hoàng Thượng Đế.
Người tu hành khi đắc Đạo thì chơn hồn đều phải đến Bạch Ngọc Kinh bái lễ Đức Chí Tôn.
Toà Thánh Tây Ninh do Đức Lý Giáo Tông giáng cơ chỉ cho Hộ Pháp xây cất mô phỏng theo kiểu vở hình ảnh của Bạch Ngọc Kinh nơi cõi thiêng liêng. Vì vậy, Toà Thánh Tây Ninh được coi là Bạch Ngọc Kinh tại thế.
Diệu diệu Huỳnh Kim Khuyết,
Nguy nguy Bạch Ngọc Kinh.
(Kinh Cúng Tứ Thời).
Thời thường phụng hiến Huỳnh Kim Khuyết,
Đàn lệ thăng triều Bạch Ngọc Kinh.
(Thơ Huệ Phong).
白 髮
Bạch: Trắng, bạc. Phát: Tóc.
Bạch phát là tóc bạc, chỉ tuổi già.
Người xưa cho rằng “Tâm sầu bạch phát” tức là lòng sầu muộn sinh ra đầu bạc. Do điển Ngũ Tử Tư vì buồn phiền và lo nghĩ việc báo thù, nên suốt đêm không ngủ, sáng hôm sau đầu tóc bạc hết.
Duyên bạch phát là chỉ duyên nợ keo sơn, bền chặt cho đến tuổi già.
Huấn từ của Đức Thượng Sanh đọc trong buổi lễ Cứu Trợ Việt Kiều Hồi Hương có dạy: Trên cõi tạm nầy, những nỗi buồn, vui, đau khổ, nhục vinh, là những đoạn trường mà khách trần, ai cũng phải trải qua từ thanh my chí bạch phát để nung đúc tâm hồn cho tới mức siêu nhiên và những ai đã vượt qua những cảnh bất thường ấy mà lòng vẫn minh chánh, chí vẫn thanh cao đó là những người biết sống, đáng sống và đã tìm ra con đường trở về với Ðấng Chí Tôn Thượng Đế.
Bước thế chịu đày khơi bạch phát,
Nguồn Tiên ráng lướt rạng thanh my.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Tiệc ngọc vui vầy trang bạch phát,
Xe hoa mừng đón lứa thanh my.
(Thơ Thuần Đức).
白 雪 神 光
Bạch tuyết: Tuyết trắng. Thần quang: Ánh sáng thần.
Bạch tuyết thần quang là ánh sáng thần, trắng như màu tuyết.
Trong đạo Cao Đài, Bạch tuyết thần quang là một sợi dây bằng hàng trắng dài ba thước, ba tấc, ba phân (3m33) và bề ngang rộng ba tấc ba phân ba ly (0m333) dùng để Bảo Văn Pháp Quân làm đai lưng.
Khi đai dây Bạch tuyết thần quang phải buộc mối chừa ra trước thế nào đủ thắt một bông sen năm cánh.
Lưng (Bảo Văn Pháp Quân) đai Bạch Tuyết Thần Quang bằng hàng trắng...
(Pháp Chánh Truyền CG).
白 兔
Bạch: Trắng. Thố: Con thỏ.
Bạch thố là thỏ bạc, chỉ mặt trăng.
Bạch thố do tục truyền trên mặt trăng có con thỏ trắng giã thuốc, nên còn gọi mặt trăng là bạch thố.
Xem: Thỏ bạc ác vàng.
Tuyến kim đưa khách chưa hoà,
Mượn gương bạch thố rọi nhà tri âm.
(Tam Nương Giáng Bút).
Trông gương bạch thố gìn ngôi trước,
Ngó bóng kim ô giữ nghĩa sau.
(Tiêu Diêu Đạo Sĩ).
白 手 成 家
Bạch thủ: Tay trắng, chỉ hai bàn tay không. Thành gia: Thành nhà, chỉ nên sự nghiệp.
Bạch thủ thành gia ý muốn nói người tài giỏi, chỉ có hai bàn tay trắng mà lập nên sự nghiệp.
Bạch thủ thành gia ít kẻ tài,
Cũng như Huệ Mạng thế không hai.
(Đạo Sử).
白 雲 洞
Hay “Bạch Vân Am 白 雲 庵”.
Bạch Vân: Mây trắng, đây là tên một cái Động Thánh nơi cõi Thiêng liêng. Động: Cái hang động.
Bạch Vân Động, hay Bạch Vân Am, theo Đức Hộ Pháp là tên một cái Động hay Am ở Quảng Hàn Cung, tức Nguyệt cầu, do Bạch Vân Hoà Thượng làm giáo chủ mà kiếp giáng trần chính là Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm có Thánh danh là Thanh Sơn Chơn Nhơn.
Trong thời Tam Kỳ Phổ Độ, chư Thánh Bạch Vân Động là Thanh Sơn Chơn Nhơn, Nguyệt Tâm Chơn Nhơn và Trung Sơn Chơn Nhơn lãnh lịnh Đức Chí Tôn làm trung gian ký kết một hoà ước giữa Trời và người, gọi là đệ tam Thiên nhân hoà ước.
Xem: Tam Thánh.
1.- Bạch Vân Động:
Bạch Vân Động trước có công tu,
Yên xã tắc nam cứ vận trù.
(Thanh Sơn Giáng Bút).
2.- Bạch Vân Am:
Hình Tam Thánh tạc rành trên vách,
Tiền căn đều ở Bạch Vân Am.
(Lược Thuật Toà Thánh).
白 王 大 會
Bạch Vương Đại Hội là một Đại Hội trong ba thời kỳ khai Hội Long Hoa để phổ độ chúng sanh. Đó là Thanh Vương Đại Hội, Hồng Vương Đại Hội và Bạch Vương Đại Hội.
Bạch Vương Đại Hội là một Đại Hội được mở ra trong thời kỳ phổ độ lần thứ ba, do Đức Di Lạc Cổ Phật làm Chưởng Giáo, và Chủ khảo trong thời kỳ nầy.
Sở dĩ gọi “Bạch Vương Đại Hội” là vì Hội Long Hoa kỳ thứ ba, ví như mùa thu, chủ về kim, thuộc màu trắng, nên gọi là Bạch Vương.
Nam Mô Tam Hội Long Hoa Bạch Vương Đại Hội, Di Lạc Cổ Phật Chưởng Giáo Thiên Tôn.
(Kệ U Minh).
拜
Bái là lễ, lạy, cách cung kính đối với người trên. Như: Bái tạ, bái lễ, cúc cung bái.
Thánh giáo Thầy dạy Ngài Thượng Trung Nhựt có câu: Khi bái lễ, hai tay con chấp lại, song phải để tay trái ấn Tý, tay mặt ngửa ra nằm dưới, tay trái chụp lên trên.
Bớt những lẽ giựt giành bái phước,
Lấy Vu Lan đặng được ấm no.
(Lục Nương Giáng Bút).
Hễ bé thơ tập vào bái ra chào,
Quyền cha mẹ, Trời cao kia dám sánh.
(Phương Tu Đại Đạo).
沛 公
Bái Công là của Lưu Bang, vị vua Cao Tổ nhà Hán.
Lúc đầu, Lưu Bang tụ họp hơn ba ngàn người, khởi binh dựng nghiệp ở huyện Bái (Đất Bái) để đánh Tần, được dân chúng tôn là Bái Công.
Đất Bái là một huyện của nước Tần đặt ra. Thời Hán thuộc Bái Quận, nay thuộc tỉnh Giang Tô, ở phía đông Bái Huyện.
Xem: Lưu Bang.
Xưa Hớn Bái Công chưa phải là chánh đáng một vị minh quân, mà cơ Trời vẫn để cho nghiệp Hớn ba trăm năm quyền bỉnh.
(Thánh Giáo Thái Thượng).
Hay “Bái kính”.
Bái: Lễ, lạy, cách cung kính đối với người trên. Kỉnh (kính): Lòng kính trọng.
Bái kỉnh, như chữ “Bái kính 拜 敬”, là làm lễ lạy để tỏ lòng kính trọng.
Vọng Thượng Đế chứng lòng thành tín,
Chúng sanh đồng bái kỉnh khẩn nguyền.
(Giới Tâm Kinh).
Bái: Lễ, lạy, cách cung kính đối với người trên. Mạng (mệnh): Mệnh lệnh.
Bái mạng, như chữ “Bái mệnh 拜 命”, là lạy vua hoặc các Đấng Thiêng Liêng và vâng mệnh sai khiến.
Thánh giáo Đức Hộ Pháp dạy về lễ Tấn phong như sau: Còn lễ toàn đạo hiệp lại tổ chức cuộc lễ cho có vẻ tôn nghiêm rồi toàn thể Chức sắc Thiên phong đến hành lễ bái mạng cho vị Tân phong đủ uy quyền với toàn Đạo.
Phổ biến Cao Đài tròn trách nhiệm,
Ngọc Hư bái mạng hưởng tiền duyên.
(Thơ Nguyệt Quang).
拜 服
Bái: Lạy, vái, kính cẩn. Phục: Cho là tài giỏi, là đáng tôn kính mà theo.
Bái phục, như chữ “Kính phục 敬 服”, tức chịu phục hoàn toàn, một cách kính cẩn.
Xưa Võ Vương nhà Châu nghe một lời nói phải thì bái phục.
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
1.- Bài là một thiên, một khúc về văn chương hay âm nhạc. Như: Bài thơ, bài luận, bài học, bài nhạc, bài thi.
Thánh giáo Thầy có đoạn: Cuộc đời khó khăn tỷ như bài thi, nếu dễ thì ai thi cũng đặng, cuộc thi có ý vị gì đâu? Hễ bài càng khó thì đậu càng cao, đậu cao mới ra có giá.
Khi thong thả đặt bài trẻ học,
Lấy gương già gợi chọc sắp con.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Con lo bài biết sợ biết rầu,
Theo dịu ngọt khuyên cầu con học hỏi.
(Phương Tu Đại Đạo).
2.- Bài là những tấm giấy nhỏ cứng có ghi hình hoặc nút, dùng làm quân trong vài môn cờ bạc.
Như: Đánh bài, bài bạc, bộ bài, quân bài.
Cũng đừng ham kết bạn kết bè,
Theo cờ bạc bài me phá của.
(Phương Tu Đại Đạo).
Chẳng phải giỏi ra tài đánh lú,
Không phải hay bong vụ đánh bài.
(Phương Tu Đại Đạo).
3.- Bài 排 là bẻ bắt, chê bai, đuổi trừ, không dùng một mình.
Như: Anh ta bài bác người có đạo, cơ quan bài tiết, cô ấy hay bài trừ thuốc lá.
Vậy chớ quần chúng phải làm thế nào để bài trừ cái chế độ chánh trị tàn bạo kia hầu áp dụng chế độ dân quyền.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
4.- Bài 牌 là một tấm làm bằng ngà, bằng gỗ hoặc bằng giấy, dùng để viết chữ vào đó. Như: Bài ngà, bài chỉ, bài vị, lệnh bài.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có đoạn dạy: Ngay chỗ bàn ngự của Thầy, phải để một cái ghế trước ngôi ba vị Ðầu Sư, vọng một bài vị, biểu Lịch viết như vầy: Cửu Thiên Cảm Ứng Lôi Thinh Phổ Hoá Thiên Tôn, lại vẽ thêm một lá bùa "Kim Quang Tiên" để thòng ngay giữa, ai ai ngó vào cũng đều thấy đặng.
Hương thề để trước vị bài,
Châm đề thấy rõ những ngày biệt phu.
(Nữ Trung Tùng Phận).
排 駁
Bài: Gạt bỏ. Bác: Không chấp nhận.
Bài bác tức là chê bai, công kích nhằm mục đích gạt bỏ ra ngoài.
Thánh Giáo Thầy đã dạy: Than ôi! Ðiều vui sướng lao trần chẳng ai buộc mà nhiều kẻ tìm tới, mối đạo đức trau thân là phương châm thoát tục mà lắm kẻ trốn lánh, bài bác mối Ðạo Trời, khua môi uốn lưỡi, mà tưởng cho mình hơn đặng các phẩm nhơn sanh, chớ chẳng dè là một hình phạt rất nặng nề đã chực chúng nó nơi chốn A Tỳ.
Lễ Nhạc chẳng hoàn toàn, nhiều đứa cậy tài học giỏi, lượm lặt sách xả rác hủ nho, mong bài bác đặng vinh mặt.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
Bài: Tấm giấy cứng có ghi hình hoặc nút dùng làm quân trong vài môn cờ bạc. Bạc: Tiền bạc.
Bài bạc là đánh bài đánh bạc để ăn tiền, nói chung về bộ môn cờ bạc.
Như: Bài bạc là bác thằng bần.
Xem: Cờ bạc.
Cũng đừng bài bạc lận nhau,
Rũ ren rù quến, lấy xâu ăn đầu.
(Kinh Sám Hối).
排 除
Bài: Đuổi trừ. Trừ: Bỏ đi.
Bài trừ là trừ bỏ đi, làm cho mất đi.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Nơi xứ nầy, dân tình rất thuần hậu và ôn hoà, nên Thầy đến cũng như Chúa Cứu Thế đã đến với chúng con để bài trừ Tà thuyết và truyền bá Chơn đạo trên toàn cầu.
Nếu đã có tinh thần chế độ chánh trị dân quyền rồi, thì quần chúng coi đó là một chủ nghĩa phải theo đuổi để bài trừ một chế độ không hợp lòng dân.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
牌 位
Bài: Tấm bảng. Vị: Chỗ ngồi.
Bài vị còn gọi là Thần vị, Linh vị, Thần chủ, hay Mộc chủ, là một tấm giấy hoặc gỗ dày, có đế đặt đứng được. Trên mặt giấy hoặc gỗ có viết tên họ, ngày sinh, ngày mất của người chết…
Bài vị được người xưa quan niệm là đặt trên bàn thờ để linh hồn người quá cố nương tựa vào đó.
Trong Đạo Cao Đài, Bài vị còn dùng viết Thánh danh các Đấng để thờ. Đó còn được gọi là Long Vị.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Trung nghe! Con dời bài vị của Lý Bạch để dưới tượng Thầy, con dọn dẹp trong hết, để một cái ghế kế một bên tran thờ, rồi để lên một cái ghế lớn đặng làm ngôi Giáo Tông, ba cái nữa để sắp hàng theo ở dưới đặng làm ngôi cho ba vị Ðầu Sư.
Bài vị lờ mờ nhang toả khói,
Ánh đèn mòn mỏi, nến rơi châu.
(Thơ Hoài Tân).
排 斥
Bài: Bắt bẻ, chê bai, đưa đẩy. Xích: Đuổi ra.
Bài xích, như chữ “Bài bác 排 駁”, là chê bai, công kích nhằm mục đích loại ra ngoài.
Bài xích còn có nghĩa bài trừ, ruồng đuổi.
Thiếu hoà ái ấy tâm bài xích,
Đủ đức tin là phúc vĩnh tồn.
(Thơ Huệ Phong).
1.- Bãi là vùng đất ăn ra ven sông, ven biển, hoặc nổi lên ở giữa mặt nước.
Như: Bãi sông, bãi biển, bãi sa mạc.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Phải có một bàn tay từ thiện giúp đỡ cứu nguy cho họ bằng không họ chẳng khác chi những khách lữ hành vì thiếu nước mà phải phơi thây giữa bãi sa mạc.
Bãi biển đưa chơn chưa đáng buổi,
Trần hoàn trả vẹn nợ tiền khiên.
(Đạo Sử).
Dường như biển thảm không cầu,
Kẻ thì cuối bãi, người đầu gành khơi.
(Thất Nương Giáng Bút).
2.- Bãi khoảng đất trống, rộng rãi, bằng phẳng có một đặc điểm nào đó.
Như: Bãi sa mạc, bãi chiến trường, bãi tha ma, bãi mìn, bãi cỏ non.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có đoạn: Những kẻ đau khổ chán chường, đó là những vết đen tối của bức tranh xã hội, những vai tuồng bẩn thỉu của sân khấu đời. Phải có một bàn tay từ thiện giúp đỡ cứu nguy cho họ bằng không họ chẳng khác chi những khách lữ hành vì thiếu nước mà phải phơi thây giữa bãi sa mạc.
Thương gái kiên trinh mùa chiến trận,
Thương trai nhiệt huyết bãi sa trường.
(Thơ Hoàng Nguyên).
3.- Bãi 罷 là bỏ đi, thôi không làm nữa. Như: Bãi binh, bãi chức, bãi công, bãi khoá.
Trong Thánh Ngôn Sưu Tập, Thánh giáo Lý Giáo Tông giáng cơ tại Cung Đạo Đền Thánh, đêm 6 tháng 5 năm Tân Hợi có câu: Vậy từ đây Lão bãi bỏ lịnh truất cầu thăng, rồi đây Hội Thánh Cửu Trùng Đài phải tái lập Sổ cầu phong và cầu thăng.
Sở buộc cống ngọc ngà báu nhứt,
Báu của Hàn đạo đức nghĩa nhân.
Sở Vương nghe sứ phân trần,
Báu xưa vui trả, xưng thần bãi đi.
(Báo Ân Từ).
Bãi buôi là chỉ người có vẻ ân cần, vồn vã với kẻ khác, nhưng trong lòng có thể không thật.
Ca dao có câu: “Thương em, thương dạng, thương hình, Thương lời ăn tiếng nói thiệt tình không bãi buôi”.
Gặp lắm đứa du côn tánh nóng,
Mình bãi buôi trở giọng hiền từ.
(Phương Tu Đại Đạo).
Dù đang ray rứt niềm chua chát,
Cũng tạm bãi buôi ý ngọt ngào.
(Thơ Hoài Tân).
Bãi: Khoảng đất trống, rộng rãi, bằng phẳng có một đặc điểm nào đó. Cát: Đá vụn thành hạt nhỏ ở bờ sông hoặc bờ biển.
Bãi cát là những vùng đất toàn là cát ở ven sông hay ven biển, hoặc khoảng đất nào đó.
Như: Du khách tắm biển nằm phơi mình trên bãi cát.
Mơ hồn hồ điệp đêm trăng lạnh,
Thương cái dã tràng bãi cát xây!
(Thơ Thuần Đức).
敗
1.- Bại là ở tình trạng bị suy yếu, giảm hoặc mất khả năng cử động, do tổn thương thần kinh.
Như: Chân tay bị bại, do thất chí khiến tinh thần anh ấy lụn bại.
Rượu thịt hằng ngày hại tấm thân,
Say sưa vất vả, bại tâm thần.
(Thơ Thiên Vân).
2.- Bại là không đạt được kết quả dự định. Như: Thành bại, thắng bại, bại trận, bại danh.
Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông có dạy: Lão, vì đã thấy rõ, nên không nỡ ngồi an xem cơ thắng bại. Lão nhứt định đứng chung vai đâu cật cùng chư hiền hữu, chư hiền muội, mà chia bớt khổ tâm.
Thành bại lẽ thường lo cũng uổng,
Ðể công dạy kẻ biết nguồn lành.
(Đạo Sử).
Là vì biết chữ bại thành,
Say mê chung đỉnh tử sanh quay cuồng.
(Thơ Hộ Pháp).
敗 壞
Bại: Liệt, suy yếu, hư hỏng. Hoại: Phá nát.
Bại hoại là tồi tàn, hư hỏng, tức suy đồi đến mức mất hết phẩm chất.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Trời đã không nhường ai, không làm tôi tớ ai, thì con cái của Ðức Chí Tôn cũng chỉ có phận sự giúp đỡ thiên lương của con cái Ngài, vì thiên lương ấy là căn bản tạo quyền cho thiên hạ, là con cái của Ngài, lẽ đương nhiên chúng ta phải biết phận sự đối với quốc gia xã hội, chúng ta đang ở trong tình thế bại hoại.
Mê hồn là đứa nịnh trân,
Làm cho bại hoại triều thần ngửa-nghiêng.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
敗 露
Bại: Hư hỏng, thua. Lộ: Bày ra, bị người khác biết.
Bại lộ là vỡ lở, không còn giấu giếm được nữa, tức công việc định giữ kín mà bị người phát giác.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Vì làm giàu với những hành động bất chánh nên họ vẫn cứ phập phồng lo sợ không biết cơ mưu sẽ bại lộ ngày nào.
Nhiều kẻ dụng thế để cầu Thầy, chớ kỳ thật là chúng nó muốn tìm cách dòm hành mong các con lầm mà bại lộ cơ quan mật yếu mà thôi.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
1.- Bay là di chuyển trên không gian.
Như: Phụng hoàng bay, máy bay trực thăng, mây bay lơ lửng trên bầu trời.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Đức Nhàn Âm Đạo Trưởng có câu: Còn con hạc nội, tuy bữa đói bữa no, nhưng Trời Ðất rộng thinh, mặc tình cao bay xa liệng.
Bay đến Hồ Dương phụng gáy chiều,
Thần Tiên giáng thế biết bao nhiêu.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Tịch mịch mây bay cuốn bóng thiều,
Trời thu ướt át cảnh buồn hiu.
(Thơ Huệ Giác).
2.- Bay là di chuyển trong không khí, hoặc cuốn trôi theo làn gió thổi.
Như: Hương bay nực nồng, khói bay mờ mịt, lá cờ bay trước gió.
Thánh giáo Bát Nương Diêu Trì có đoạn: Xin quý anh quý chị ráng nắm gốc cây cho chắc, kẻo gió lớn thổi bay đa! Ví dầu có thổi thế nào thì em xin quý anh quý chị ráng bịn gốc lại nghe.
Hương bay rừng trước nực mùi thung,
Ðạo đức đem về một nẻo chung.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
3.- Bay là phai mất, biến mất, trốn đi.
Như: Áo quần đã bay màu, nước hoa đã bay mùi, cao bay xa chạy.
Bủa lưới Càn Khôn lừa lọc khách,
Chơn trời chẳng kẻ thoát cao bay.
(Đạo Sử).
Bay: Di chuyển trên không gian. Bướm: Tên một loại côn trùng cánh có phấn.
Bay bướm là có hình thức trau chuốt, bóng bẩy, hơi kiểu cách.
Như: Lời văn rất chảy chuốt và bay bướm.
Giọt rơi thánh thót: lời bay bướm,
Đèn lụn tờ mờ, gió vuốt ve.
(Thơ Thuần Đức).
Bay: Bốc lên trên không. Hơi: khí, mùi.
Bay hơi, như chữ “Bay mùi”, là hơi bốc lên trong có lẫn mùi thơm tho hoặc hôi thúi.
Bay hơi còn có nghĩa là chất lỏng chuyển thành hơi ở lớp bề mặt.
Như: Nồi cơm nếp bay hơi mùi lá dứa.
Trong núi lửa bay hơi tanh khét,
Linh hồn người đầy nghẹt trong ngoài!
(Kinh Sám Hối).
Bay: Di chuyển trên không, dùng biểu thị hành động diễn ra nhanh lẹ. Nhảy: Co chân cất mình lên.
Bay nhảy là khi bay khi nhảy, ý chỉ người năng động, thường tham gia công việc nầy, công việc nọ, không chịu ở yên một chỗ.
Như: Anh ấy bay nhảy suốt mấy năm nay giờ mới chịu ngưng nghỉ.
Còn hoi hóp tranh đua bay nhảy,
Nhắm mắt rồi phủi thảy lợi danh.
(Kinh Sám Hối).
1.- Bày là xếp đặt, phô trương. Như: Bày quả phẩm để cúng tế, bày hương án để nghinh tiếp.
Thánh giáo Thầy có câu: Phẩm tước là sự tổng hợp các chức tước đã bày ra để quyến rũ người hoặc ít hoặc nhiều. Những chức tước ấy do người đời tạo ra phong thưởng kẻ khác.
Khi vận thới lung lăng chẳng kể,
Lúc suy vi bày lễ khẩn cầu.
(Kinh Sám Hối).
Chín tầng cửa đóng then cài,
Ra ngoài nghiêm nghị, trong bày đoan trang.
(Nữ Trung Tùng Phận).
2.- Bày là lập ra, làm ra. Như: Ai Bày luật lệ làm chi, bày cách làm ăn, bày kế thưa kiện.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thần Hoàng Bổn Cảnh có dạy: Bởi thế nên ai dùng vật thực mà cúng, tốt hơn nên dùng trái cây. Ai có lòng thì tế lễ chi chi ta cũng chẳng trách đặng, vì cựu lệ bày đến ngày nay.
Gặp thây nuốt sống ăn tươi,
Vì bày thưa kiện móc bươi xúi lời.
(Kinh Sám Hối).
Xem thường dưới mắt dở cùng hay,
Ngặt độ cho ra chẳng kẻ bày.
(Đạo Sử).
3.- Bày là nói ra những điều thầm kín ở trong lòng.
Như: Bày tỏ quan điểm, cạn bày những điều đã suy nghĩ trong tâm, giãi bày việc oan ức.
Bước chân ra nghĩ ngậm ngùi thay,
Nỗi ước nhiều phen khó cạn bày.
(Nhàn Âm Đạo Trưởng).
Bày: Phô trương, bày đặt.
Bày biện là đặt ra những cái không cần thiết, không thích hợp.
Bày biện còn là không ngăn nắp, trật tự, để đồ đạc phơi bày ra ngoài không theo hiện trạng ban đầu.
Về nhạc lễ trong Đàn cúng, Đức Chơn Cực Lão Sư có dạy: Nhạc còn chưa đủ thể cách, đờn để rước chư Tiên, Thánh, không phải vậy là đủ. Người nhạc công phải ăn mặc tinh khiết, sắp đặt vào khởi Nhạc phải có thứ lớp phân minh, chớ chẳng phải muốn đờn bài chi cũng đặng. Ấy là trái Thánh ý đó. Phải sắp đặt lại, nghe à! Nơi đàn nào mà khác hơn Thánh giáo và bày biện nhiều trái cách thì đạo hữu không phép tham dự.
Nếu chẳng giữ theo lẽ chánh mà hành đạo và bày biện nhiều sự vô lối thì trong ít năm sau đây, sẽ trở nên một mối Tả đạo, mà các con đã từng thấy.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
Bày: Sắp đặt để tạo ra cho có. Đặt: Bịa ra, tức nghĩ cách để tạo dựng ra.
Bày đặt là đặt để ra, hoặc đặt ra cái không cần thiết.
Bày đặt còn có nghĩa là bịa chuyện không có.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Bần Ðạo đã nói chức Ðại Hương Cả hay Kế Hiền là mới bày đặt sau này, chớ Nho Giáo chỉ định tới Hương Chủ là hết.
Làm thinh thì thiếu nói ra cũng ngặt,
Sợ chê rằng bày đặt nên trò.
(Phương Tu Đại Đạo).
Xin đừng tưởng lời tôi bày đặt,
Mẹ cưng dâu trước mắt thấy thường.
(Phương Tu Đại Đạo).
Bày: Đặt ra, làm ra. Trò: Cuộc diễn ra để mà chơi.
Bày trò là đặt ra một cuộc để vui đùa.
Trong Thánh Ngôn Sưu Tập, Thánh giáo Thất Nương Diêu Trì Cung có câu: Ôi! Câu hờn giọng thảm ai khéo bày trò. Ôi! Tánh hoài tình ai gây nên mối? Cái đời đã gọi là vô vị mà ai dè cho tới bậc Thần Tiên thoạt trông đến cũng phải nghiễm nhiên yêu trọng.
Ham miếng cao lương thường hại mạng,
Mê mồi danh lợi luống bày trò.
(Thơ Thuần Đức).
Chung đỉnh bày trò không quyến luyến,
Công danh trước mắt chả xôn xao.
(Thơ Cao Quỳnh Diêu).
Cuộc thế bày trò toàn ảo mộng,
Công danh phú quý gẫm bao lâu.
(Thơ Thái Đến Thanh).
Bày: Sắp đặt để tạo ra cho có. Vẽ: Chỉ, bày cho, hoặc bày đặt thêm cái không cần thiết.
Bày vẽ là giúp đỡ cho biết cách làm, cách giải quyết.
Bày vẽ còn có nghĩa là đặt ra cái không thiết thực hoặc không thật cần thiết, làm cho thêm phiền phức.
Đức Quyền Giáo Tông giải nghĩa về “Chí thành” cớ câu: Anh lớn chỉ biểu cho em nhỏ, người rõ Ðạo bày vẽ cho kẻ chưa thông. Người nầy lầm lỗi kẻ kia chỉ giùm, dưới vui tuân lời trên dạy, trên không hổ cho dưới bày, lấy lễ hoà nhau, trên khuyên dưới kỉnh vui vẻ chung nhau, buồn thảm sớt nhau, giao lưng đâu cật mà bồi đắp mối Ðạo Trời cho rõ là con một cha, chung thờ một chủ nghĩa.
Hành lễ do Thánh giáo lúc nơi đàn Cầu Kho, chẳng nên bày vẽ nhiều.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
Sang hèn bọt nước hay bày vẽ,
Vinh nhục đám mây khéo cợt trò.
(Thơ Tiếp Đạo).
Bảy là một số đếm đứng sau số sáu và trước số tám. Như: Lên bảy, được bảy tuổi, bảy mươi, ba chìm bảy nổi.
Thánh giáo Thầy dạy Ngài Giáo Hữu Thượng Kiệt Thanh có câu: Con phải giúp Thơ trong việc lập Thánh Thất. Thầy giao cho con phải săn sóc, mướn thợ làm bảy cái ngai: Một cái trọng hơn cho Giáo Tông, ba cái cho ba vị Chưởng Pháp, ba cái cho ba vị Ðầu Sư, nhứt là cái ngai của Giáo Tông phải làm cho kỹ lưỡng, chạm trổ Tứ Linh, nhưng chỗ hai tay dựa phải chạm hai con Rồng, còn của Chưởng Pháp chạm hai con Phụng, của Ðầu Sư chạm hai con Lân. Nghe à!
Trước lâm chứa đặng Bảy Ông Hiền,
Vì bỏ tục trần mến cảnh Tiên.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Bảy mươi chưa biết trọn mình lành,
Ðừng thị khi đời ỷ miệng lanh.
(Đạo Sử).
Hay “Bảy bước thành thơ”.
Bảy bước hay “Bảy bước thành thơ”, bởi câu “Thất bộ thành thi 七 步 成 詩” nghĩa là bảy bước thành bài thơ.
Do tích từ sách Thế Thuyết: Tào Phi, con của Tào Tháo, muốn hại em ruột của mình là Tào Thực, biểu trong bảy bước phải làm một bài thi, không làm xong, sẽ bị giết chết. Tào Thực liền ứng khẩu ngâm, Tào Phi xem xong bài rất nên cảm động, bèn tha cho em mình là Tào Thực.
Xem: Củi đậu nấu đậu.
Bảy bước hay bảy bước thành thơ ý chỉ người có tài về thơ ca.
1.- Bảy bước:
Bảy bước chưa nên tài xạ kích,
Công danh đâu lại đợi người mời.
(Đạo Sử).
Lánh mặt vùi chôn tài bảy bước,
Phủi tay đeo đuổi giấc ngàn năm.
(Thơ Hoài Tân).
2.- Bảy bước thành thơ:
Tài hay bảy bước thành thơ,
Điển xưa lưu dấu bây giờ còn ghi.
(Thơ Thiên Vân).
Hay “Bảy cái ngai”.
Bảy chiếc ngai là bảy chiếc ghế chạm hình tứ linh Long, Lân, Phụng, sơn son thếp vàng, được đặt nơi bậc thứ 9 của Cửu Trùng Đài, hai bên có hai hàng Tàn, Lọng và dàn Bát bửu.
Bảy chiếc ngai này từ dưới thấp kể lên theo thứ tự như sau:
- Ba ngai dưới cùng dành cho ba vị Đầu Sư phái Thái, phái Thượng, phái Ngọc.
- Ba ngai kế trên dành cho ba vị Chưởng Pháp cũng thuộc ba phái: Thái, Thượng, Ngọc.
- Ngai sau hết lớn nhứt, đẹp nhứt dành cho Đức Giáo Tông.
Trong Thánh Ngôn, Đức Chí Tôn dạy ông Kiệt, vị chức sắc tạo ra bảy chiếc ngai đó như sau: Kiệt! Con phải giúp Thơ trong việc lập Thánh Thất. Thầy giao cho con phải săn sóc, mướn thợ làm bảy cái ngai: Một cái trọng hơn cho Giáo Tông, ba cái cho ba vị Chưởng Pháp, ba cái cho ba vị Ðầu Sư, nhứt là cái ngai của Giáo Tông phải làm cho kỹ lưỡng, chạm trổ Tứ Linh, nhưng chỗ hai tay dựa phải chạm hai con Rồng, còn của Chưởng Pháp chạm hai con Phụng, của Ðầu Sư chạm hai con Lân.
Trước thì có bảy chiếc ngai,
Giữa tám pho tượng phô bày ngũ chi.
(Quang Cảnh Toà Thánh).
Trong có bảy chiếc ngai vàng ánh,
Chạm Tứ linh vi cánh đẹp thay.
(Lược Thuật Toà Thánh).
Dây oan nghiệt tức những điều oan nghiệt và mầm ác mà con người sống ở thế gian đã gây ra, tạo thành những sợi dây vô hình ràng buộc lẫn nhau, có khả năng lôi kéo các chơn linh phải chìm đắm vào luân hồi sinh tử.
Vì sự thù giận mà con người gây ra những hành vi hung dữ, rồi tạo thành những mầm ác. Những mầm ác đó mới tạo nên căn nghiệp ác mà tự thân phải đền trả ngay trong kiếp hiện tại hay kiếp lai sinh. Cứ thế, những oan nghiệt trong nhiều kiếp chồng chất lên nhau mà tạo thành những chuỗi dây oan nghiệt.
Kinh Giải Oan có câu:
Bước đường sanh tử đã chồn,
Oan oan nghiệt nghiệt dập dồn trái căn.
Như vậy, tức là con người luôn tự mình xe dây để tự trói chặt vào mình mà không hay. Sợi dây oan nghiệt đó xây chuyển từ muôn đời ngàn kiếp trong cái vòng lẩn quẩn không bao giờ thoát ra nổi.
Chúng sanh may duyên gặp thời Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Chí Tôn và Phật Mẫu khai nền Đại Đạo hầu mở cơ tận độ, nên giao cho những bài kinh Tận Độ và “Bí tích hành phép Đoạn căn” để giải thoát Chơn thần ra khỏi những sợi dây oan nghiệt đó.
Trong quyển Bí Truyền Chơn Pháp, Ngài Đầu Sư Thượng Sáng Thanh có giải thích như sau: Sự sống của con người do nơi khí Sanh quang nuôi nấng, khí sanh quang nơi mình chúng ta tụ tại bảy khiếu làm nên điển lực, gọi là Thất khiếu sanh quang, phàm gọi là bảy dây oan nghiệt hay bảy sợi từ khí.
Bảy dây oan nghiệt là bảy dòng điển lực nối liền giữa Chơn thần và thể xác, hễ điển lực còn thì thi hài còn vận chuyển, sanh hoạt, điển lực dứt thì thi hài phải chết. Khi sắp sửa chết thì thi hài phải chịu một phen khổ sở, đau đớn, vì bảy dây oan nghiệt này vẫn còn ràng buộc thể xác và Chơn thần, không bứt rời ra được.
Còn theo hai Ngài Bảo Pháp Nguyễn Trung Hậu và Phan Trường Mạnh trong quyển “Thiên Đạo” thì thể xác con người và Chơn thần liền nhau bởi sợi từ khí. Ngài nói: Có bốn thể là: Vật thể, Khí thể, Thần thể, Thánh thể.
Vật thể (Corps physique: Rupa) là xác thịt, thể thứ nhứt của con người. Nó do bốn nguyên tố lớn hiệp thành (Tứ đại giả hiệp). Bốn cái nguyên tố ấy là: đất, nước, lửa, gió.
Vật thể bị bao bọc bởi một lớp tinh khí (éther), gọi là Khí thể (Double éthérique: linga-sharira), cũng gọi là cái Phách (Chơn thần), kêu nôm là cái Vía, thuật âm phù gọi Tướng tinh. Khí thể dùng rút sanh lực vào Vật thể đặng giữ cho Vật thể được sanh tồn. Nhờ có Khí thể chở che bao học, Vật thể mới không tan rã.
Khí thể dính với Vật thể bởi một sợi từ khí (lienmagnétique). Khi nào Khí thể bứt sợi dây ấy mà lìa khỏi Vật thể, thì con người phải chết. Lúc bấy giờ, Vật thể mất sự che chở của Khí thể, nên lần lần tiêu rã.
Theo hai Ngài, có khi sợi từ khí khó bứt làm cho kẻ hấp hối phải nhiều đau đớn. Cho nên tôn giáo dùng kinh “độ hồn” đọc trong khi người bịnh sắp tắt hơi, là để giúp cho sợi từ khí nhờ sức rung động của những tiếng mầu nhiệm trong câu kinh mà được bứt ra dễ dàng.
Người tu hành đầy đủ đạo đức thì Khí thể của họ nhẹ nhàng trong sạch, sợi từ khí ấy lại được tinh vi, nên khi thoát xác phàm, sợi từ khí bứt ra rất dễ, nên liễu trần một cách êm ái.
Chúng sanh trong thời Tam Kỳ Phổ Độ được may duyên gặp đạo, chính Đức Chí Tôn vì lòng Đại từ bi, mở đạo Cao Đài và ân xá, ban cho những bài kinh Tận Độ và bí tích Cắt Dây Oan Nghiệt, tức là dùng tiếng kinh kệ mầu nhiệm hay những diệu pháp cắt bảy cái mối năng lực (bảy dây oan nghiệt hay bảy sợi từ khí) đặng cho Chơn thần xa lìa xác tục, rồi cũng dùng diệu pháp mà đưa vào cõi Hư linh.
Vi vậy, chúng ta thấy khi hành phép đoạn căn cho người chết, vị hành pháp dùng kéo đi vòng quanh quan tài để cắt đứt bảy sợi dây oan nghiệt đó.
Theo Ngài Đầu Sư Thượng Sáng Thanh, bảy dây oan nghiệt ở các vị trí sau của thân người:
- Ngay mỏ ác.
- Ngay trán.
- Ngay cổ.
- Ngay tim.
- Ngay hông bên trái.
- Ngay dạ dưới.
- Ngay xương khu.
Khi người hành pháp đoạn căn, người hành pháp phải định Thần cho thấy được xác mới cắt đúng vị trí của bảy lằn khí còn vướng bận với xác thân. Nghĩa là đi từ phải qua trái giáp vòng quan tài về vị trí giữa như lúc mới đứng ban đầu.
Ấy vậy, làm phép xác cốt yếu là tắm gội xác tục và hồn với giọt nước Cam Lồ, cắt đứt bảy dây oan nghiệt cho Chơn thần lìa khỏi xác rồi đưa Chơn thần vào cõi Hư linh, nghĩa là Thanh Tịnh Đại Hải Chúng, Tứ Đại Bộ Châu và Tam Thập Lục Thiên.
Bảy dây oan nghiệt hết ràng,
Bợn trần rửa sạch muôn ngàn đau thương.
(Kinh Tận Độ).
Khép kín bờ my giã cuộc đời,
Bảy dây oan nghiệt hết ràng thôi.
(Thơ Hoàn Nguyên).
Bảy hai địa cầu, như chữ “Thất thập nhị Địa Cầu 七 十 二 地 球”.
Theo Thánh giáo, trong bảy mươi hai Địa Cầu, con người chúng ta đang ở trên Địa cầu 68, trên chúng ta nữa là Địa cầu 67, 66... rồi đến Địa cầu thứ nhứt, tức là được sắp xếp theo thứ tự từ trọng trược đến khinh thanh.
Như thế, dưới Địa cầu 68 là bốn Địa cầu u tối nặng nề nữa, ấy là u minh giới.
Xem: Thất thập nhị Địa.
Trên đường sứ mạng bằng nay,
Thông công khắp cả bảy hai Địa Cầu.
(Lược Thuật Toà Thánh).
Bảy: Một số trên sáu dưới tám. Lão: Ông già.
Bảy Lão tức là bảy ông lão đời nhà Tấn, thường vui chơi ở nơi rừng Trúc Lâm, mà người đời xưng tụng là Trúc Lâm Thất Hiền.
Xem: Trúc Lâm Thất Hiền.
Bảy Lão nhắc tình già giẹo cẳng,
Ba bà hỏi việc mụ ham thi.
(Thiên Thai Kiến Diện).
Bảy: Số đếm, trên sáu dưới tấm. Năm: Chỉ thời gian 12 tháng. Dũ Lý: Tên nhà giam thời vua Trụ Vương.
Bảy năm Dũ Lý ý chỉ Tây Bá Hầu Cơ Xương bị vua Trụ nghe lời tên gian thần là Bí Trọng không để cho Cơ Xương về nước, mà bắt giam ở thành Dũ Lý hết bảy năm.
Bảy năm Dũ lý nhọc nhằn,
Hà Ðồ Bát Quái dịch thành Lạc Thơ.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
Bảy ba: Số dùng để chỉ nhiều phen, nhiều lần. Nổi chìm: Vật trôi trên dòng nước, lúc nổi, lúc chìm.
Bảy nổi ba chim chỉ hoàn cảnh không may, gặp chuyện gian truân, vất vả phải chịu cực khổ như vật trôi lênh đênh trên mặt nước, khi chìm khi nổi bao phen.
Khiến trần gian bảy nổi ba chìm,
Người mê mẩn khó tìm đường chánh đại.
(Giác Mê Khải Ngộ).
Bảy: Số tiếp theo số sáu trong dãy số tự nhiên. Thiếp 妾: Vợ kế, vợ bé trong các gia đình quyền quý, giàu sang thời xưa.
Bảy thiếp, do tục ngữ có câu: “Trai năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên một chồng”, dùng để chỉ người đàn ông ngày xưa có quyền lấy nhiều vợ (tục đa thê), nhưng đàn bà chỉ lấy một chồng.
Trai bảy thiếp cũng cho chẳng hại,
Gái lộn chồng đã hoại tánh danh.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Bảy: Số tiếp theo số sáu trong dãy số tự nhiên. Ức 億: Mười vạn, hay một trăm ngàn năm.
Bảy ức do chữ “Thất ức niên 七 億 年” là bảy chục vạn năm, hay bảy trăm ngàn năm (Thất bá thiên niên).
Thánh giáo Đức Chí Tôn khi ban Tịch đạo chức sắc Cửu Trùng Đài Nam phái có câu: Thanh đạo tam khai thất ức niên 清 道 三 開 七 億 年, nghĩa là nền Đạo trong sạch của Đức Chí Tôn mở ra lần thứ ba được bảy trăm ngàn năm.
Ngoài ra, cặp liễn trong ngày lễ khai Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ vào ngày 15- 10- năm Bính Dần, 1926 tại chùa Gò Kén như sau: Di Lạc thất bá thiên niên quảng khai Đại Đạo, Thích Ca nhị thập ngũ thế chung lập thiền môn 彌 勒 七 百 千 年 廣 開 大 道, 釋 迦 二 十 五 世 終 立 禪 門, nghĩa là Đức Phật Di Lạc mở rộng nền Đại Đạo trong bảy trăm ngàn năm, Đức Phật Thích Ca lập Phật giáo trong hai mươi lăm thế kỷ thì chấm dứt.
Xem: Thất ức niên.
Mở lối quy nguyên truyền bảy ức,
Phất cờ cứu khổ nắm hai đài.
(Thơ Hoàng Nguyên).
Tàn cao bảy ức xuân chen trổ,
Cảnh tịnh bốn mùa khách viếng thăm.
(Thơ Hoàng Nguyên).
1.- Bám là tự giữ chặt vào, tự giữ cho không rời ra khỏi vật gì đó.
Như: Bám thân cây để leo lên, đĩa bám vào mình, bụi bám đầy quần áo.
Chơn bám địa cầu cứng biết bao,
Cả vườn đều thấp có ta cao.
(Quyền Giáo Tông Giáng).
Năm tháng cỏ loang vùng cổ mộ,
Mai chiều bụi bám bức chân dung.
(Thơ Hoài Tân).
2.- Bám còn có nghĩa là dựa vào, không rời khỏi người khác để được tồn tại.
Như: Sống bám vào cha mẹ, ăn bám xã hội, không lao động nuôi thân chỉ ăn bám vào của vợ.
Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Đặng chúng ta mới có phương thế giúp ích cho họ, nếu không đủ trí tài thì chúng ta sẽ làm một con vật mà thôi, làm một vật ăn bám của xã hội nhơn quần không có hữu ích gì hết.
Quỷ đói giục lòng tham Đạo chích,
Ma nghèo lờn mặt bám thi gia.
(Thơ Hoàng Nguyên).
1.- Ban là từ Nôm chỉ khoảng thời gian không xác định rõ, nhưng tương đối ngắn. Như: Ban mai, ban trưa,...
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Lằn tang thương gần khởi, đường đạo đức chớ dần dà, công vẹt ngút mây xanh của các con sẽ làm cho sáng sủa bạch minh, cho bước đàng sau nầy do theo dấu ấy mà lần đến cõi vô ưu, để bước khỏi lối nhọc nhằn ban sơ khai dẫn.
Ban mai ai đẩy mặt trời lên,
Không đặng cao sang chí kém bền.
(Đạo Sử).
2.- Ban 頒 là người trên cho kẻ dưới, hoặc truyền cho mọi người biết. Như: Vua ban sắc.
Thánh giáo Thầy có câu: Cái quyền hành lớn lao ấy do Thầy ban cho nó, nên đặng quyền cám dỗ các con, xúi biểu các con, giành giựt các con mà làm tay chơn bộ hạ trong vòng tôi tớ nó.
Từ Bi ngũ cốc đã ban,
Dưỡng nuôi con trẻ châu toàn mảnh thân.
(Kinh Thế Đạo).
3.- Ban 班 là nhóm quan lại được chia theo văn, võ, hoặc tả, hữu và phân theo hạng bậc.
Ban còn là một tổ chức gồm tập thể được lập ra để cùng làm một công việc.
Thánh giáo Thầy dạy ông Marcel Martin, 135 rue Catinat, Saigon, có đoạn: Sau nầy, con sẽ là một trong các môn đồ trung thành của Thầy để đi truyền bá hoà bình và tương ái trên khắp hoàn cầu. Ban Truyền giáo Pháp sẽ được thành lập gần đây.
Giúp dân hưởng chữ thái bình,
Văn ban võ bá triều đình đặc an.
(Kinh Thế Đạo).
Nơi Diêu điện, lưỡng ban chầu chực,
Nhớ đến con bứt rứt lòng già.
(Diêu Trì Kim Mẫu).
頒 布
Ban: Vua hoặc các Đấng Thiêng Liêng cho, cấp cho người dưới. Bố: Khắp mọi nơi.
Ban bố là ban hành và công bố cho mọi người biết. Như: Ban bố một đạo luật.
Ban bố còn có thể hiểu là ban và bố hoá cho.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Tâm là một nguồn sáng Thiêng Liêng, một điểm linh quang của Ðức Chí Tôn ban bố cho con người để khuyên lơn dìu dắt và soi sáng bước đường đời cũng như bước đường Ðạo của mỗi cá nhân trong kiếp sanh, hầu lúc rời bỏ xác phàm, mỗi nguyên nhân hay hoá nhơn được hoặc quy hồi cựu vị, hoặc thăng đẳng cấp, hoặc bị trừng trị theo Luật Thiên Ðiều.
May đặng Chí Tôn ban bố phước,
Trở nên phú quý hưởng ân hồng.
(Thơ Thái Đến Thanh).
Ban: Một tổ chức nhiều người có nhiệm vụ được quy định. Đạo sử: Lịch sử của tôn giáo.
Ban Đạo sử là một tổ chức nhằm sưu tầm, nghiên cứu, lưu trữ các tài liệu lịch sử của đạo Cao Đài từ hồi khai đạo trở về sau.
Để lưu giữ lại những tài liệu lịch sử của Đạo, Hội Thánh Cao Đài có thành lập một Ban Đạo Sử theo vi bằng số 02/VB ngày 26-10- Mậu Thân (Dl. 15-12-1968) do phiên họp của Hội Thánh Hiệp Thiên, Cửu Trùng và Phước Thiện, dưới sự chủ toạ của Đức Thượng Sanh.
Ban Đạo Sử có nhiệm vụ sưu tầm, nghiên cứu các tài liệu lịch sử của đạo Cao Đài.
Đôi liễn Ban Đạo Sử đã được Ngài Phối Sư Thượng Cảnh Thanh soạn và dâng Hội Thánh:
道 脈 開 成 教 理 搜 尋 今 驗 古
Đạo mạch khai thành giáo lý sưu tầm kim nghiệm cổ.
史 綱 編 撰 真 經 藏 貯 本 追 源
Sử cương biên soạn chơn kinh tàng trữ bổn truy nguyên.
Nghĩa là:
Đạo mạch đã khai mở, sưu tầm giáo lý, xem việc nay nghiệm lại việc xưa.
Sử cương được biên soạn, tàng trữ chơn kinh, tìm hiểu tận nguồn gốc.
Đạo sử phòng văn lễ khánh thành,
Một toà đồ sộ đẹp như tranh.
(Thơ Chơn Tâm).
頒 行
Ban: Ban cho, công bố. Hành: Làm, đi, thi hành.
Ban hành là tuyên bố để thi hành.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Trước khi ngưng cơ, Thầy đã cho lịnh dùng cơ bút thế nào? Thầy tưởng mỗi Thiên phong đều đặng Thánh Ngôn của con đã ban hành, sao còn có ra việc bất minh ấy, là con chẳng nói tất cho mỗi Thiên phong rõ và ban hành Thánh ý, để cho chúng nó chác lấy vào mình, thì con cũng không khỏi chia một phần trong ấy.
Đầu Sư Nữ phái chịu công cử theo luật Hội Thánh ban hành, theo luật lệ Hội Thánh phân xử về đường đời và đường đạo.
(Pháp Chánh Truyền CG).
Đạo Cao nay đã lập thành,
Đạo khai pháp luật ban hành thế gian.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
Ban 班: Một tổ chức gồm nhiều người có phận sự đặc biệt. Kỳ lão 耆 老: Những người già trên sáu mươi tuổi.
Ban Kỳ Lão là một đoàn thể gồm những người già trên sáu mươi tuổi nằm trong Hội Thánh Phước Thiện.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Nên nhớ, Hội Thánh Phước Thiện không có hàm chức như Hành Chánh, phải đi theo lên cho tới tột phẩm Phật Tử. Những Chức Sắc hàm chức ngày nay Bần Đạo sẽ kiếm thế đưa qua Ban Kỳ Lão hết.
Hiền hữu hiệp với Ban Kỳ Lão mà tính việc ấy.
(Thánh Giáo Hộ Pháp).
Ban 班: Tổ chức gồm một tập thể người được lập ra để cùng làm một công việc. Kiến trúc 建 築: Xây dựng.
Ban Kiến Trúc là một Ban công thợ có nhiệm vụ lo việc thiết kế, xây dựng, trang trí các Thánh Thất, hay các Điện Thờ Mẫu, cùng các cơ quan khác ở trung ương Tòa Thánh hay các địa phương của Đạo Cao Đài.
Đứng đầu Ban Kiến Trúc là một vị Tổng Giám, nhiều vị Phó Tổng Giám và Tá Lý giúp việc.
Như ta biết, từ ngày mới Khai Đạo nhứt là trong giai đoạn Hội Thánh trả chùa Gò Kén cho Hòa Thượng Như Nhãn để về làng Long Thành Tây Ninh khai phá rừng cất ngôi thờ Đức Chí Tôn đều nhờ sự hy sinh của nhân viên công quả, không nệ hiểm nguy của thú dữ, lam sơn chướng khí của núi rừng để theo tiếng gọi thiêng liêng của Hội Thánh mà làm tròn một chức sắc, một nhân viên công quả. Chính Đức Thượng Sanh, trong một bài Thuyết đạo trước đông đủ chức sắc, chức việc Phước Thiện đã nhắc lại công lao vĩ đại đó như sau:
Hồi tưởng lại cách đây bốn mươi mốt năm, vùng nội ô và ngoại ô Thánh địa toàn là những khu rừng rậm chứa đầy thú dữ. Biết bao điều nguy hiểm trong sự phá rừng và sự khai thác: nào lam sơn chướng khí, nào nước độc muỗi mòng, nào thú dữ chực hờ... lại thêm thiếu người công quả. Nếu chức sắc lúc ban sơ không có chí hy sinh và sụt sè vì những trở ngại, nếu Ðức Thượng Phẩm không có chí cương quyết điều khiển công quả, phần nhiều là người Tần Nhơn thì ngày nay đâu có vùng Nội ô Thánh Ðịa, đâu có một đô thị tôn giáo trang hoàng và xinh đẹp nhứt trong nước Việt Nam.
Đó chỉ giải đoạn đầu phá rừng cất ngôi chúa lá bằng cây ván, còn những công trình sau nầy như ngôi Đền Thánh hiện nay, Báo Ân Từ, các cơ quan Đạo, vòng rào chung quanh và cổng trong Nội Ô Tòa Thánh đều nhờ công sức của mọi thành phần trong Đạo đóng góp, nhứt là công lao khổ nhọc của các nhân viên công quả trong Ban Kiến Trúc trực tiếp xây dựng nên. Điều nầy Đức Thượng Sanh, trong cuộc lễ Khánh Thánh Nhà Hội Vạn Linh cũng đã cho biết như sau:
Thưa toàn thể chư Chức sắc, Chức việc và Ðạo hữu, hoàn thành được công trình xây dựng nầy, Hội Thánh nhờ nơi tấm nhiệt thành của toàn Ðạo Chức sắc, Chức việc, cùng Ðạo hữu nam nữ nơi trung ương cũng như ở các địa phương vui lòng chung đậu kẻ ít người nhiều, nhứt là nhờ nơi công quả của BAN KIẾN TRÚC và thợ chuyên môn toàn là người hiến thân cho Ðạo.
Vậy Ban Kiến Trúc được thành lập trên cơ sở pháp lý nào?
Trước đây, Ban Kiến Trúc, Ban Nhà Thuyền và Ban Mỹ Thuật là ba bộ phận trực thuộc Cơ Quan Công Thợ, do Đức Hộ Pháp ban hành Thánh Lịnh Số: 231/TL ngày 9 tháng 7 năm Canh Dần (Dl. 22/18/1950) lập thành gồm có các chức danh và quy định nhiệm vụ như sau:
a.- Tá Lý coi về một Sở, đối hàm với Chánh Trị Sự hay Hành Thiện.
b.- Phó Tổng Giám làm đầu một hay nhiều Sở, dưới quyền của Tổng Giám, đối hàm Lễ Sanh.
c.- Tổng Giám kiểm soát toàn thể các cơ sở, đối hàm Giáo Hữu.
Các chức vụ trên cũng phải hành sự trong Đạo đủ 5 năm công nghiệp mới được cầu thăng và tới bậc Tổng Giám thì được Hội Thánh đem ra quyền Vạn Linh công nhận vào hàng Giáo Sư, sau khi đầy đủ công nghiệp.
Theo Thánh Lịnh trên:
Các phẩm trong Cơ Quan Công Thợ như Tá Lý, Phó Tổng Giám, Tổng Giám không có đạo phục riêng khi chầu lễ Đức Chí Tôn. Mỗi khi các vị nầy vào cúng Đàn thì mặc áo dài trắng như Đạo Hữu và đứng vào vị trí Đạo Hữu. Nhưng khi quy liễu thì được hành lễ tang theo nghi thức tương đương, nghĩa là:
Tá Lý hành lễ tang theo Chánh Trị Sự.
Phó Tổng Giám hành lễ tang theo Lễ Sanh.
Tổng Giám hành lễ tang theo Giáo Hữu.
Cơ Quan Công Thợ, theo Thánh Lịnh số: 231/TL chịu dưới quyền của Hội Thánh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, tức là không trực thuộc riêng của Hội Thánh Cửu Trùng Đài hay Hội Thánh Phước Thiện.
Chính sự kiện pháp lý nầy đã xảy ra trước đây giữa Ban Kiến Trúc và Hội Thánh Phước Thiện khi xây dựng cổng Chánh Môn vào năm 1965.
Theo thông lệ từ trước, khi xây dựng một công trình nào của Hội Thánh cũng đều do bản vẽ của Đạo, tức do Ban Kiến Trúc vẽ.
Bản vẻ cổng Chánh Môn được Đức Hộ Pháp chỉ dẫn Ban Kiển Trúc vẻ vào năm Đinh Hợi có “Bề cao 36 thước, bề ngang 60 thước, cổ kín tam quan, trên nóc đắp mái ngói có hình cổ pháp tam giáo”.
Ngoài ra sau nầy Thiếu Tướng Lê Văn Tất, con Ngài Đạo Nhơn Lê Văn Trung được Chánh phủ bổ nhiệm làm Tỉnh trưởng Tây Ninh, có nhờ Ty Kiến Thiết tỉnh Tây Ninh vẽ một họa đồ khác về cổng Chánh môn, chỉ cao có 9 thước, ngang 54 thước, trên ngói đắp hai rồng phò Cổ pháp.
Bản thiết kế nầy được Ngài Bảo Thế, Quyền Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài chấp thuận lấy để xây cổng Chánh Môn.
Trong lúc đó, Tổng Giám Ban Kiến Trúc là ông Lê Văn Thế phản đối, không bổ công thợ đến xây dựng, viện lý do rằng không dùng họa đồ của Ban Kiến Trúc vẽ theo sự chỉ dạy của Đức Hộ Pháp.
Ngài Bảo Thế bèn ra lịnh cho ông Chưởng Quản Cơ Quan Phước Thiện là Chơn Nhơn Lê Văn Trung ban Huấn lịnh số 31/HL ngày 10 tháng 5 năm Ất Tỵ thâu quyền chức Tổng Giám của Lê Văn Thế và cử ông Phó Tổng Giám Trần Văn Lành lên thay quyền Cai quản Ban Kiến Trúc, bổ công thợ để xây dựng cổng Chánh Môn.
Sau đó, Tổng Giám Lê Văn Thế đem tất cả nội vụ trình lên Đức Thượng Sanh. Thượng Sanh yêu cầu Bộ Pháp Chánh minh tra rồi dựa theo phúc trình của Bộ Pháp Chánh, Ngài ra văn bản giải quyết như sau:
Hiệp Thiên Đài |
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ |
Văn Phòng |
(Tứ thập niên) |
Thượng Sanh |
Tòa Thánh Tây Ninh |
Số: 072/TS |
|
Kính gởi: |
- Hiền huynh Bảo Thế.
- Hiền huynh Đầu Sư. |
Tham chiếu: V/v Chưởng Quản Phước Thiện ra Huấn Lịnh thâu hồi nhiệm vụ của vị Tổng Giám Ban Kiến Trúc Lê Văn Thế.
Kính Quý Hiền huynh,
Theo Phúc Trình minh tra số: 157/PC của Hiền huynh Hiến Pháp, Chưởng Quản Bộ Pháp Chánh thì vị Chưởng Quản Phước Thiện không có thẩm quyền thâu hồi nhiệm vụ của vị Tổng Giám Ban Kiến Trúc Lê Văn Thế, vì chức vụ Tổng Giám ngang hàng với Giáo Hữu Cửu Trùng Đài.
Ngoài ra chiếu theo Thánh Lịnh Số: 231/TL ngày 20 tháng 8 năm 1950 của Đức Hộ Pháp, Ban Kiến Trúc là một Cơ Quan Công Thợ biệt lập, chịu dưới quyền điều khiển của vị Tổng Giám và đặt dưới hệ thống của Cửu Trùng Đài và Phước Thiện đặng tạo tác hoặc tu bổ các cơ sở trong châu vi Tòa Thánh.
Nếu Tổng Giám cơ quan nầy không làm tròn phận sự hoặc không tuân lịnh thượng cấp, thì tùy trường hợp, bên Hành Chánh hay bên Phước Thiện phúc báo lên Hội Thánh Hiệp Thiên Đài để nội vụ được giao qua Bộ Pháp Chánh minh tra đủ lẽ rồi Hội Hiệp Thiên Đài mới quyết định sau.
Vậy quý Hiền huynh ra lịnh cho các cơ quan dưới quyền trực thuộc của mình thi hành theo đề nghị của Bộ Pháp Chánh gồm hai khoản sau đây:
1.- Quyền chức của vị Tổng Giám Lê Văn Thế vẫn giữ như cũ.
2.- Ngưng công cuộc tạo tác những Thánh Thất và Điện Thờ Phật Mẫu trong các Phận Đạo chiếu theo lời phê của Đức Hộ Pháp và quyết nghị của Hội Nhơn Sanh năm Giáp Thìn. Những Thánh Thất và Điện Thờ Phật Mẫu cất lỡ rồi, Hội Thánh sẽ tùy nghi sửa đổi cho hợp thời và hợp lệ.
Nay kính, |
Tòa Thánh, ngày 25 tháng 8 năm Ất Tỵ
(Dl. 20/9/1965).
(Ấn ký)
THƯỢNG SANH |
|
|
Số: 221/SL: Sao y bổn chánh. |
Tư cho Quyền Ngọc Chánh Phối Sư, lịnh cho
Khâm Thành thi hành khoản 2 trong chỉ thị nầy. |
Tòa Thánh, ngày 28 tháng 8 năm Ất Tỵ
Đầu Sư
(Ấn ký)
Thượng Sáng Thanh |
|
Tóm lại, Ban Kiến Trúc không trực thuộc riêng của Cửu Trùng Đài hay Phước Thiện, mà đặt dưới quyền của Hội Thánh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Trước đây, có nhiều người tưởng lầm Ban Kiến Trúc đặt dưới quyền Công Viện Phước Thiện, nên qua sự việc trên, vị Chưởng Quản Phước Thiện là Chơn Nhơn Lê Văn Trung mới lập Huấn lịnh thu hồi chức Tổng Giám của Lê Văn Thế và cử Phó Tổng Giám Trần Văn Lành lên thay. Nhưng theo theo Đức Thượng Sanh, qua văn bản số: 072/ TS, cho rằng Ban Kiến Trúc do Thánh Lịnh số: 231/TL của Đức Hộ Pháp thành lập ngày 10 tháng 5 năm Ất Tỵ, là bộ phận của Cơ Quan Công Thợ, một cơ quan biệt lập, đặt dưới hệ thống của Cửu Trùng Đài và Phước Thiện đặng tạo tác hoặc tu bổ các cơ sở trong châu vi Tòa Thánh.
Nhứt là nhờ nơi công quả của Ban Kiến Trúc và thợ chuyên môn toàn là người hiến thân cho Ðạo.
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
Ban 頒: Trên cấp cho kẻ dưới. Khen: Nói lên sự đánh giá tốt về người nào với ý vừa lòng.
Ban khen là cấp trên khen ngợi cho kẻ dưới.
Thánh giáo Lý Giáo Tông dạy Ngài Ngọc Trang Thanh có đoạn: Lão để lời ban khen đó. Nên hư của Ðạo đều nơi tay hiền hữu, hiền hữu khá liệu lấy mà giữ gìn.
Ví biết ăn năn đền tội trước,
Sửa răn sửa mạng Lão ban khen.
(Đạo Sử).
Ban 班: Tổ chức gồm một tập thể người được lập ra để cùng làm một công việc.
Nhà Thuyền Bát Nhã: Cơ quan quản lý Thuyền Bát Nhã và Đạo Tỳ.
Theo Thể pháp, Thuyền Bát Nhã trong đạo Cao Đài do lịnh của Đức Hộ Pháp cho tạo ra, được làm bằng gỗ, có hình dáng là một con rồng vàng, có bánh xe di chuyển được để chuyên chở quan tài của người ngộ Đạo trong buổi lâm chung, vào Nghĩa địa chôn cất.
Ban Nhà Thuyền Bát Nhã là một Ban quản lý Thuyền Bát Nhã và nhơn viên công quả, được Hội Thánh Cao Đài thành lập vào năm Ất Hợi (1935), có nhiệm vụ tẩn liệm, di chuyển quan tài và cất táng thể xác cho nhơn sanh quy liễu về mặt thế đạo.
Trước đây, Ban Nhà Thuyền, Ban Mỹ Thuật và Ban Kiến Trúc, là ba bộ phận trực thuộc Cơ Quan Công Thợ, do Đức Hộ Pháp ban hành Thánh Lịnh Số: 231/TL ngày 9 tháng 7 năm Canh Dần (Dl. 22/18/1950) lập thành gồm có các chức danh và quy định nhiệm vụ như sau:
a.- Tá Lý coi về một Sở, đối hàm với Chánh Trị Sự hay Hành Thiện.
b.- Phó Tổng Giám làm đầu một hay nhiều Sở, dưới quyền của Tổng Giám, đối hàm Lễ Sanh.
c.- Tổng Giám kiểm soát toàn thể các cơ sở, đối hàm Giáo Hữu.
Các chức vụ trên cũng phải hành sự trong Đạo đủ 5 năm công nghiệp mới được cầu thăng và tới bậc Tổng Giám thì được Hội Thánh đem ra quyền Vạn Linh công nhận vào hàng Giáo Sư, sau khi đầy đủ công nghiệp.
Theo Thánh Lịnh trên:
Các phẩm trong Cơ Quan Công Thợ như Tá Lý, Phó Tổng Giám, Tổng Giám không có đạo phục riêng khi chầu lễ Đức Chí Tôn. Mỗi khi các vị nầy vào cúng Đàn thì mặc áo dài trắng như Đạo Hữu và đứng vào vị trí Đạo Hữu. Nhưng khi quy liễu thì được hành lễ tang theo nghi thức tương đương, nghĩa là:
Tá Lý hành lễ tang theo Chánh Trị Sự.
Phó Tổng Giám hành lễ tang theo Lễ Sanh.
Tổng Giám hành lễ tang theo Giáo Hữu.
Đến ngày 26 tháng 11 năm Giáp Dần (Dl. 8/1/1975) Ngài Hiến Đạo Phạm Văn Tươi và Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa ký ban hành Bản Nội Quy riêng cho Ban Thuyền Bát Nhã Và Đạo Tỳ có sự phê kiến của Ngài Hiến Pháp Trương Hữu Đức, Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài.
Bản Nội Quy Thuyền Bát Nhã Và Đạo Tỳ có nội dung như sau:
I.- Danh hiệu, địa điểm:
Ban Thuyền Bát Nhã Và Đạo Tỳ được Hội Thánh thành lập vào năm Ất Hợi (1935) vì sự nhu cầu cần thiết cất táng thể xác của nhơn sanh về mặt Thế đạo nhơn luân cũng như phần Đời do cơ Đạo gầy nên.
Địa điểm Ban Ban Thuyền Bát Nhã Và Đạo Tỳ Trung Ương đặt tại Nội Ô Tòa Thánh Tây Ninh.
Ban Thuyền Bát Nhã Và Đạo Tỳ thành lập do Thánh ý của Đức Hộ Pháp, Chưởng Quản Nhị Hữu Hình Đài với mục đích:
- Tẩn liệm thi hài người quy liễu.
- Giúp tang gia người hữu công cùng Đạo và người may duyên mới gặp Đạo.
- Đưa linh cữu bằng Thuyền Bát Nhã đến nghĩa địa để an táng theo phép Đạo.
II.- Thành phần Ban Nhà Thuyền Bát Nhã Và Đạo Tỳ:
1. Ban Nhà Thuyền Bát Nhã Và Đạo Tỳ Trung Ương, văn phòng đặt tại Nội Ô Tòa Thánh Tây Ninh gồm có:
- Một Chưởng Quản (hai phó).
- Một Tổng Thơ Ký (hai Thơ Ký).
- Một Trưởng Ban Kiểm Soát và Trật Tự (một phó).
- Một Trưởng Ban Tổ Chức và Liên Lạc (một phó).
- Một Trưởng Ban Huấn Luyện (hai phó).
- Một Trưởng Ban Tẩn Liệm (một phó).
- Một Trưởng Ban Khai Huyệt (một phó).
- Một Trưởng Ban Đạo Tỳ (hai phó).
- Một Trưởng Ban Tài Sản và Tu Bổ (một phó).
- Một Trưởng Ban Vận Tải và Ẩm Thực (một phó).
Ban Nhà Thuyền Bát Nhã Và Đạo Tỳ Trung Ương có thể hợp bất thường do vị Chưởng Quản triệu tập, hoặc số nhơn viên quá bán phần trong Ban yêu cầu.
2. Ban Nhà Thuyền Bát Nhã Và Đạo Tỳ địa phương gồm có:
- Một Trưởng Ban (một phó).
- Một Thơ Ký.
- Một Tiểu Ban Kiểm Soát (một phó).
- Một Tiểu Ban Tẩn Liệm (một phó).
- Một Tiểu Ban Khai Huyệt (một phó).
- Một Tiểu Ban Hướng Dẫn Quan (một phó).
Ban Nhà Thuyền địa phương cần họp ít nhứt mỗi tháng 1 lần có sự hiện diện của chức sắc Hành Chánh, Phước Thiện nơi địa phương để bàn định công việc.
Tổng kê mọi hoạt động trong tháng đã qua và hoạch định chương trình cho tháng tới cùng phúc trình về cho Ban Trung Ương.
III.- Đồng phục cho nhơn viên Ban Nhà Thuyền Bát Nhã Và Đạo Tỳ may bằng vải dày hay là kaki màu đen có viền trắng theo kiểu Á Đông (võ phục).
1.- Đồng phục cấp điều hành:
- Áo đen cổ viền trắng 3 phân rưởi xếp.
- Tay viền trắng 6 phân.
- Áo đơm 6 nút trắng, đường kính 2 phân rưởi.
- Viền hai miệng túi trên 4 phân.
- Viền hai miệng túi dưới 5 phân.
- Viền trôn áo 1 phân rưởi gắn tụi bằng kim tuyến trắng 3 phân.
- Dây nịch lưng trắng 6 phân
- Đầu đội mủ Đồng Tử Quân (trước cao sau thấp).
- Quần đen ống hai mươi viền hai sọc trắng, mỗi sọc 2 phân rưởi cách nhau 1 phân.
- Chân đi giày bố trắng.
- Các cấp Trưởng Ban nơi địa phương cũng đồng phục như cấp điều hành Trung Ương.
2.- Đồng phục của Đạo Tỳ:
- Đầu đội mủ Đồng Tử Quân màu trắng.
- Áo cổ viền trắng 3 phân rưởi xếp.
- Tay viền trắng 6 phân.
- Hai túi trên viền trắng 4 phân.
- Trôn áo viền trắng 2 phân.
- Năm nút trắng đường kính 1 phân rưởi.
- Quần đen ống 20 viền một sọc trắng 1 phân, hai bên ống viền trắng 2 phân có dây rút.
- Giày bố đen cổ cao.
Đồng phục của các cấp điều hành địa phương cũng như đồng phục của các các cấp điều hành Trung Ương, nhưng chỉ có vị Trưởng Ban Nhà Thuyền và Trưởng Ban Đạo Tỳ mà thôi.
Đồng phục của Đạo Tỳ địa phương cũng như đồng phục của Đạo Tỳ Trung Ương.
Y phục của các Trưởng Ban điều hành cũng như nhơn viên Đạo Tỳ từ Trung Ương đến địa phương chỉ mặc trong khi thừa hành phận sự và tuyệt đối không được mặc đi rong ngoài đường hoặc vào nhà người hay quán, lều. Ngoài ra khi nghỉ việc được mặc Đạo phục thường.
VI.- Thưởng Phạt:
Nhơn viên Ban Nhà Thuyền Bát Nhã và Đạo Tỳ tại Trung Ương, có hạnh đức tốt, có tinh thần phục vụ, hành sự liên tục từ 5 năm trở lên tròn nhiệm vụ, do đề nghị Chưởng quả Nhà Thuyền sẽ được Hội Thánh cứu xét cho vào hàng Tá Lý.
Tá lý hành sự liên tục từ 5 năm trở lên, không bị án tiết, sau khi minh tra đủ lẽ, sẽ được Hội Thánh phong vào hàng Phó Tổng giám.
Phó Tổng Giám hành sự liên tục từ 5 năm trở lên, hạnh đức tốt được tín nhiệm trong Ban, sau khi minh tra đủ lẽ, sẽ được Hội Thánh phong vào hàng Tổng Giám.
Nhơn viên thuộc Ban Nhà Thuyền Bát Nhã và Đạo Tỳ, nếu vị nào không tùng luật pháp Đạo, phạm vào các điều răn cấm của Hội Thánh đã quy định sẽ bị vị Chưởng Quản Nhà Thuyền phạt quỳ hương về các tội nhẹ, nếu tái phạm hoặc trọng tội sẽ bị đưa ra Ban Kỷ Luật của Hội Thánh xét xử.
Từ ngày thành lập Ban Thuyền Bát Nhã năm 1935 cho đến năm 1953, Đức Hộ Pháp đã thấy được cái công lao khó nhọc của nhơn viên Ban Nhà Thuyền, nhứt là sự hy sinh to lớn của nhơn viên tẩn liệm, không nệ sự thối tha, sự truyền nhiễm của dịch bịnh từ thân xác người mất, nên Đức Ngài cho tổ chức một bữa tiệc tại Báo Ân Từ ngày 12 tháng 6 năm Quý Tỵ (1953) để thết đãi nhơn viên Ban Thuyền Bát Nhã.
Câu chuyện được Thừa Sử Phan Hữu Phước thuật lại như sau:
Đức Hộ Pháp mời Bà Phối Sư Hương Nhiều, Chưởng Quản Phước Thiện Nữ phái và Ban Nấu Chay giao cho 5000đ để sắm một tiệc đặng đãi thượng khách chừng một trăm người, định hai giờ chiều ngày 12 tới đây tại Hậu Điện Báo Ân Từ. Bà Phối Sư Hương Nhiều xin giúp thêm 3000 đ.
Đúng hẹn, tiệc làm xong chờ đợi 3 giờ rưởi chưa thấy thượng khách đến, Đức Ngài mặc tiểu phục đến Báo Ân Từ. Kế 4 giờ thấy Giáo Hữu Thái Hồ Thanh, Chưởng Quản Ban Nhà Thuyền cùng đi với nhơn viên mặc đồ Đạo Tỳ. Bà Tám bạch Ngài: Sao không thấy thượng khách? Đức Hộ Pháp nói: Đây là thượng khách. Cả thảy đồng cười lên. Đức Ngài mời ngồi theo mỗi ghế có ghi tên vào mỗi ly rượu. Đức Ngài dạy người khui rượu rót vào ly cho đều đủ.
Ngài nói: Bữa nay Qua mời mấy em đến cùng với Qua một tiệc, đây có Hội Thánh chứng kiến, mấy em nâng lý cùng Qua, chứng tỏ rằng: Ly rượu nầy chính tay Qua đãi mấy em và cùng chung với mấy em trong nhiệm vụ Ban Nhà Thuyền để cấp táng thi hài người quy liễu, khi về thiêng liêng mấy em làm chứng rằng việc nầy làm có Qua cùng chung sức với mấy em, theo lẽ Qua muốn cởi áo Hộ Pháp đặng hiệp với mấy em mới phải, nhưng vì không ai cho.
Bởi cớ mà ngày nay thiết tiệc để chứng tỏ việc làm nầy có Hộ Pháp nhúng tay làm trong đó.
Qua chẳng cần luận thuyết, trước mắt mấy em đã thấy thiên hạ ở thế nầy mãi tranh với sự sống nhàn rỗi, tức là danh lợi để toại hưởng mảnh thân phàm, nếu có muốn tạo âm chất hay giúp ích xã hội thì họ cũng tìm cái nhẹ nhàng vừa theo sự dục tấn của xác phàm, chớ ít ai ra gánh vác mọi nỗi thống khổ đau thảm của người.
Cũng như việc mấy em đã đang làm, Qua thấy cái hy sinh vô bờ bến của mấy em, nhứt là sự tẩn liệm thi hài của xác chết, có nhiều khi gặp phải cái mùi trược khí có thể gây ra bịnh truyền nhiễm, nhứt là bịnh dịch hạch, trái giống, v.v... Điều mà thiên hạ tránh xa chẳng ai dám lại gần, ai cũng muốn bảo trọng sự sống mà mấy em ra lãnh với mọi khó khăn chẳng sợ cái bịnh truyền nhiễm có hại mạng sanh của kiếp con người, có khi phải lưu truyền lại cho con cháu (nhứt là bịnh lao).
Đừng nói chi trong thân tộc người nhà của gia quyến đó, rủi gặp trường hợp bệnh chứng dầu tốn hao bao nhiêu tiền bạc cũng mướn, nếu có quyền là bắt buộc dân làng hèn hạ ra làm, còn những việc mướn người đứng ra làm việc đó chỉ là một số tiền làm mướn chẳng kể xác thân phàm, làm đại làm đùa để lấy số bạc mà thôi. Còn mấy em nếu gặp các bệnh chướng độc nhiễm ấy cũng cố làm. Với phận sự, chẳng kể cái truyền nhiễm, mấy em xét lại coi trong cả thảy mấy em làm từ thuở đến giờ, nhứt là Giáo Hữu Hồ đã chịu nhiều hơn hết, mà có em nào vướng lấy bệnh truyền nhiễm ấy chăng? Nếu không có quyền năng thiêng liêng giúp mấy em làm sao tránh khỏi độc nhiễm.
Còn việc âm chất phi thường nữa, nhứt là các bậc chân tu, các nhà từ thiện hay tìm điều lành điều phải mà tạo âm chất, họ đang tìm thế nào đặng gặp một vị Phật sống ở thế nầy, đặng họ cho bát cơm, hoặc mảnh áo đặng tạo hạnh phúc trong việc âm chất.
Với sức phàm làm sao tìm đặng, nên các nguyên linh thánh chất ấy xuất hiện ra việc bố thí, tu cầu, bồi lộ làm chay, thí tế, cất chùa miễu, am tự, v.v... vì sự mơ vọng cầu may coi có gặp Phật không. Còn phần mấy em đã trọn hiến thân trong cửa Đạo làm gì có của cải mà thi hành việc nghĩa ấy được. Nếu có được chăng, chỉ có Cơ Quan Phước Thiện của nền Đại Đạo do Đức Chí Tôn lập ra mà thôi.
Điều nầy mấy em Phước Thiện nên chú ý cố gắng với nhiệm vụ dầu sớm với muộn cũng có thể gặp được.
Dự buổi lễ Khánh Thành Ban Nhà Thuyền Bát Nhã hôm nay tôi để lời chia vui với Hội Thánh Phước Thiện và mong ước quý chức sắc Phước Thiện hiệp đồng tâm chí để xây dựng nhiều cơ sở khác hầu có đủ phương tiện thật hành nhiệm vụ cao quý của cơ quan cứu khổ trong cửa Ðại Ðạo.
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
Ban 頒: Trên ban tặng cho. Phép lành: Những điển quang huyền diệu của Thiêng Liêng giúp con người nhẹ nhàng, sáng suốt.
Ban Phép Lành là một bí tích thiêng liêng huyền diệu của Đức Chí Tôn hay Đức Hộ Pháp để ban phát những điển quang lành, hầu hoá giải các điển quang ô trược, giúp cho chơn thần người tín đồ được sáng suốt, nhẹ nhàng, tránh được mọi phiền não vô minh, bước yên trên đường đạo đức.
Thánh Giáo Đức Chí Tôn vào đêm 1 tháng 1 năm Đinh Mão (Dl. 2-2-1927), sau khi khen thưởng các cao đồ, rồi Ngài giở cơ lên để Ban Phép Lành cho chư chúng sanh. Ngài nói: “Nhiều đứa khác nữa, ngày mùng 9, Thầy biểu đòi về cho Thái Bạch phong thưởng. Thầy ban ơn trọn cả các con, dầu không có mặt tại đây cũng vậy. Thầy giở cơ lên, các con đều chun ngang qua cho Thầy “Ban phép lành”.
Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo tại Kim Biên có thuật lại bí tích “Ban phép lành” mà Ngài đã học hỏi nơi Đức Chí Tôn như sau:
“Bần đạo và anh Cao Thượng Phẩm phò loan cho Đức Chí Tôn đến. Đến rồi, vừa ký tên của Ngài (ký đặc biệt) cho chúng tôi hiểu. Ngài xách hai đứa đứng dậy hết, không biết làm gì, xô ra chính giữa, rồi viết trên không vậy, đoạn biểu cả con cái của Ngài đều chun ngang dưới cơ đó hết đặng Ngài “Ban phép lành”. Khi xong, hai đứa đứng dậy, mỗi người đều chun dưới cơ vậy hết. Hễ chun qua, Ngài vẽ gì đó không biết trên đầu mỗi người. Đó là cái huyền bí của Đại Từ Phụ, mình không hiểu gì hết. Tới chừng rồi lại kêu: "Tắc, con coi đó đặng bắt chước Thầy nghe".
Thiệt, Bần đạo không hiểu gì hết, bắt chước nhưng làm sao giáng cơ như Ngài, rồi cũng vẽ như vậy sao? Không biết mà không dám hỏi. Lâu quá rồi khi đó giáng cơ nữa, dạy nữa. Bần đạo hỏi: Dạ thưa Thầy, hôm Tết Thầy ban Phép lành cho cả con cái của Thầy mà Thầy biểu con coi đó đặng bắt chước, nhưng bắt chước làm sao mới được chớ? Con có thể giáng cơ như Thầy được đâu mà bắt chước?.
Đức Chí Tôn cười, Ngài mới chỉ cái bí pháp Ban Phép lành là làm như vậy, và giải nghĩa. Ngài nói: Cái ấn tạo Càn Khôn Vũ Trụ là cái ấn Thái Cực với Lưỡng Nghi, nó thuộc về vô hình thể, tức nhiên về khí chất nên không hữu hình tướng, duy có cái ấn Tứ Tượng với Bát Quái, hễ hiển xuất ra rồi thì vạn linh mới xuất hiện ra. Ấy vậy, con đưa cái ấn Tứ Tượng với Bát Quái ra, con trụ cả cái nguyên khí của Càn Khôn Vũ Trụ rồi con phân phát lên đầu mỗi đứa, vậy là Ban Phép lành đó.
Nếu không nói rằng: Hễ con đưa nó lên đó, rồi nguơn pháp của con đó nó hiệp lại với huyền khí tối linh của Thầy tức nhiên là cái quyền Chí Tôn của Thầy đó, thì cả con cái của Thầy mới được hưởng cái hồng ân đặc biệt về hồn về phách và xác thịt của nó.
Nghe nói vậy, Bần đạo mới hỏi: Bây giờ ấn Tứ Tượng ra sao? ấn Bát Quái ra sao?
Thầy trả lời: Tay nầy để trên tay kia thành chữ thập là Tứ Tượng, rồi cái nầy có 8 cái cung của nó, tức nhiên là Bát Quái đó vậy. (Đức Hộ Pháp đưa hai tay ra làm kiểu mẫu) Rồi biểu để vậy đưa ra.
Bần đạo cũng đưa ra mà không hiểu biết, nên đưa tay ra trơ trơ mà không làm gì trong đó hết.
Ngài nói cái pháp thủ để như vầy, nhưng Bần đạo không biết làm sao. Vì tự thuở trước, Bần đạo theo đạo Thiên chúa, đâu có tin gì thứ đó. Đạo Gia Tô mà tin thứ đó đâu có được, từ nhỏ chí lớn là đại kỵ đó mà. Ngài bắt làm cái vụ nầy, Bần đạo cũng đưa ra, rồi không làm gì hết.
Sau bữa đó, Ngài thấy mỗi khi làm trật rồi Ngài lại rầy, Ngài nói: Con đưa ra cũng như không, cũng như khúc củi thôi.
- Dạ thưa Thầy, vậy chớ làm sao, con có biết đâu.
Ngài nói: Ờ, Thầy dặn con để pháp thủ như vầy.
- Đưa ra thì con cũng đưa ra chớ biết sao giờ.
Ngài nói: Con không trụ cái điển lực của con vô trong đó, trong pháp thủ của con, tức nhiên truyền thần vô đó, thì nó làm sao huy động trong Càn Khôn Vũ Trụ đặng? Không hành chơn pháp thì có gì hy vọng đâu? Giả tỷ như máy truyền thanh thâu thanh của con hát đó chớ gì, hễ đưa nó ra, nó phải rung động mới được, là xao động cả Càn Khôn Vũ Trụ chớ. Đàng nầy con đưa ra như khúc củi, có làm gì đâu?
Bần đạo hỏi: Truyền thần có phải như thể con phò loan phò loan hôm nọ, phải truyền thần, cơ mới lên phải không?
Ngài nói: Thì vậy chớ sao!
Hôm trước Thầy không có nói, Thầy nói chỉ có một lần thôi, dặn ban phép tới kẻ cùng đinh.
Bần đạo mới tò mò hỏi: Cái đó là sao?
Ngài nói: Không có gì. Con ngó thấy máy truyền thanh, máy thâu thanh bây giờ trước mắt đó là cho mấy con dễ hiểu. Con nói tiếng là nó có thể thâu được. Bây giờ con có thể đứng ra huy động thì cả Càn Khôn nầy nó linh động chớ gì, mà khi nào cái pháp thủ của con nó linh động thì cái chơn pháp của Thầy thiệt hiện cho cái pháp thủ của con, rồi cả khối sanh lực Càn Khôn Vũ Trụ trụ lại đó, rồi mới đưa tay ra như vầy, con rải trên đầu của mỗi đứa thì mỗi đứa hưởng, chớ có gì đâu.
Tại Bần đạo chưa hiểu tới chỗ đó, khi hiểu được điều đó mới có làm bây giờ đây, không thôi đâu có biết đâu mà làm. Hạng nhứt là những ấn khuyết thì lúc đó là đại kỵ với Bần đạo, vì Bần đạo không ưa thứ đó. Bần đạo đâu có phải thầy phù thầy pháp gì mà ưa. Gốc là Gia Tô giáo nên Bần đạo đâu có ưa thứ đó, nhưng biểu làm thì làm.
Nhưng cái ấn mà Đức Chí Tôn đưa cho đặng Ban Phép lành cho con cái của Ngài đến nay là trọng yếu hơn hết mà mai sáng đây, thì mấy người sẽ đến mừng tuổi, Bần đạo sẽ ban Phép lành cho, để tề tựu lại cho đông thiên hạ. Không biết chừng có người ngoài họ đi đâu lối đó, rồi làm bất tử, họ cũng hưởng được, cũng đỡ lắm chớ. Mình làm chuyện phước đức bất ngờ phải vậy không?
Thôi để mai rồi ban Phép lành, đêm nay nghỉ, sáng mai tựu lại cho có mặt đầy đủ rồi sẽ ban Phép lành. Nhớ à! Ai không có mặt không được hưởng thì chịu à!" (trích trong Bán Nguyệt San Thông Tin xuân Quý Sửu 1973).
Đức Hộ Pháp khi trấn thần chợ Long Hoa, rồi sau đó có Ban Phép Lành, Ngài nói: “Ngày giờ nầy, tuy là nhìn thấy cái chợ thô sơ, nhưng rồi đây nó sẽ bành trướng rộng rãi hơn, long trọng hơn mà chắc chắn con cái Đức Chí Tôn không bao giờ ngờ như thế, nhưng Bần Đạo dám quả quyết nó phải có và nhứt định có, vì cái chợ chuyển thế và huyền diệu Thiêng Liêng của Đức Chí Tôn đã định vậy”.
Sau hai năm trấn thần và Ban Phép Lành ngôi chợ Long Hoa, Đức Hộ Pháp lại nói: “Khi Qua ra khỏi nhà Tịnh Trí Huệ Cung, về nơi đây Qua Ban Phép Lành nơi Chợ Long Hoa là ngày mồng 2 tháng 5 năm Tân Mão khởi sự làm Chợ Long Hoa thì tháng 7 năm Tân Mão cho tới tháng 7 này thật ra chỉ có 2 năm mà thôi. Mấy em coi cái đức tin của con người, nếu mà nhơn loại trụ cả đức tin lại làm một khối thì không có gì mấy em làm không làm đặng, Qua vẫn biết cả cái sự nghiệp kinh dinh do tinh thần hoạt bát của mấy em, làm cho Qua được hưởng hạnh phúc trước mắt, cái đền ơn rất trọng hậu của mấy em đối với Qua đó vậy".
Ban Phép Lành nhơn loại biết yêu thương,
Ngưng chém giết biểu dương tình huynh đệ.
(Thơ Huệ Phong).
頒 權
Ban: Cho, cấp trên cho người dưới. Quyền: Điều mà pháp luật hoặc xã hội công nhận cho được hưởng, được làm.
Ban quyền là ban cho quyền hành.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Thầy đã lập hình thể hữu vi của Thầy, nghĩa là Hội Thánh của Ðại Ðạo ngày nay, rồi thì Thầy cũng phải ban quyền hành trọn vẹn của Thầy cho hình thể ấy đặng đủ phương tận độ chúng sanh; còn các con cả thảy đều đứng vào hàng sanh chúng, dưới quyền hành chuyển thế của Ðời, nghĩa là toàn nhơn loại đồng quyền cùng Thầy, mà tạo hoá vạn linh vốn là con cái của Thầy.
Nhờ Ngài mới đặng phục nguyên,
Ngài xin chính phủ ban quyền tự do.
(Văn Tế Quyền Giáo Tông).
頒 敕
Ban: Tặng, cấp cho. Sắc: Tờ lệnh của vua.
Ban sắc là Vua ban lịnh truyền xuống thi hành.
Trong Đạo Cao Đài, ban sắc là nói Đức Chí Tôn hay Hội Thánh ban lịnh truyền xuống sắc phong phẩm tước hoặc truyền lịnh buộc phải thi hành.
Thầy đã ban sắc cho Thần Hoàng Long Thành thăng lên chức Văn Xương, vào trấn nhậm làng Hiệp Ninh, dạy dỗ dân về Ðạo...
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
Ban: Đương lúc, chỉ khoảng thời gian không xác định rõ, nhưng tương đối ngắn. Sơ: Mới đầu.
Ban sơ là lúc đầu, tức là đang buổi khởi đầu.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Ba con đã lãnh mạng lịnh lớn lao vẹt đường tăm tối trong buổi ban sơ, Thầy lại khiến cả ba đứa phải liên hiệp nhau mới có thể xây đắp nền Ðạo cho đến cùng.
Di tích lịch sử ban sơ,
Thượng Phẩm quỳ tại ngôi thờ cung nghinh.
(Báo Ân Từ).
Để di tích ban sơ khai Đạo,
Nhờ Ngọc cơ thấu đạo huyền vi.
(Lược Thuật Toà Thánh).
Ban 班: Một nhóm gồm nhiều người. Tổng trạo 總 棹: Người cai quản và huấn luyện các bá trạo của thuyền Bát nhã.
Ban Tổng trạo là một cơ quan huấn luyện và quản lý các Bá trạo của thuyền Bát nhã thuộc đạo Cao Đài.
Trước Văn phòng của Ban Tổng trạo Trung ương Toà Thánh có hai câu liễn như sau:
Tổng đăng giác ngạn bạc long thuyền huy tương chấp đà siêu khổ hải.
總 登 覺 岸 泊 龍 船 揮 漿 執 柁 超 苦 海
Trạo tống nguyên nhân hồi cựu vị đương phong bột lãng hướng thiên đường.
棹 送 元 人 囬 舊 位 當 風 勃 浪 向 天 堂
Nghĩa là:
Tổng (hết thảy) lên bờ giác, thuyền rồng cặp bến, quơ chèo giữ lái, vượt qua biển khổ.
Trạo (mái chèo) đưa nguyên nhân, ngôi xưa trở về, lướt gió vượt sóng, hướng đến Thiên đường.
Ban Tổng Trạo thuyền Bát nhã chèo hầu, ban ngày có làm lễ triêu tịch, đêm có nhạc hoà tấu...
(Quan Hôn Tang Lễ).
Ban 班: Một nhóm gồm nhiều người. Thế Đạo 世 道: Thuộc chi Thế của Đạo.
Theo Quy Điều Ban Thế Đạo, Hội Thánh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Toà Thánh Tây Ninh thành lập Ban Thế Đạo cốt yếu mở rộng trường công quả, tiếp đón những bực nhơn tài văn võ có khả năng phụng sự cho Đạo mà không phế đời hành Đạo.
Chức sắc trong Ban Thế Đạo có nhiệm vụ độ đời nâng Đạo, hành sự trực tiếp với Cửu Trùng Đài về mặt chuyên môn trong xã hội, trực thuộc chi Thế của Hiệp Thiên Đài về mặt chơn truyền và luật pháp.
Ban Thế Đạo gồm bốn phẩm chức sắc: Hiền Tài, Quốc Sĩ, Đại Phu và Phu Tử.
Phẩm Hiền Tài do Đức Hộ Pháp lập ra, sau trong Đàn cơ tại Giáo Tông Đường ngày 3 tháng 12 năm Quý Tỵ (Dl. 7/1/1954), Đức Lý Giáo Tông giáng cơ ban cho ba phẩm chức sắc nữa là Quốc Sĩ, Đại Phu, Phu Tử.
Quy điều Ban Thế Đạo được Hội Thánh Hiệp Thiên Đài lập và Đức Thượng Sanh ban hành ngày 28 tháng 2 năm Ất Tỵ (Dl. 30/3/1965) và sau đó Nội Luật Ban Thế Đạo được Đức Thượng Sanh ban hành ngày 28 tháng 2 năm Ất Tỵ (Dl. 30/3/1965).
Trụ sở Văn Phòng Ban Thế Đạo được đặt tại lộ Oai Linh Tiên, sau lưng của Y Viện Hành chánh.
Ban Thế Đạo đang xây bên tả,
Những Hiền Tài nay đã thọ phong.
(Quang Cảnh Toà Thánh).
頒 賞
Ban: Người trên cấp cho người dưới. Thưởng: Khen ngợi, trả công cho người có công.
Ban thưởng là nói người trên ban tặng tiền của, chức tượng cho người có công.
Thánh giáo Thầy có đoạn: Thầy đã lập Ðạo nơi cõi Nam nầy là cốt để ban thưởng một nước từ thuở đến giờ hằng bị lắm cơn thạnh nộ của Thầy. Thầy lại tha thứ, lại còn đến ban thưởng một cách vinh diệu.
Thiên ý đã xoay chuyển, đã sắp đặt cơ hội, đã tạo thành dịp tốt và rốt cuộc sự ban thưởng đã đến bất ngờ, dầu muốn dầu không cũng phải đành chịu nhận lãnh.
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
1.- Bán là đổi vật, đổi mối lợi hoặc đổi sức lực để lấy tiền, hay lấy một vật khác.
Như: Bán hàng, bán nước, bán tiếng, bán công sức.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông dạy Ngài Thượng Trung Nhựt có đoạn: Hiền hữu rõ chưa? Ðã lầm nhiều rồi đó. Danh Ðạo đã bán một lần rồi, ráng mà chuộc lại.
Chờ khi lúa phát giá cao,
Khai ra bán mắc Trời nào dung cho.
(Kinhn Sám Hối).
Mua bán chọn lừa như buổi chợ,
Về nhà chưa tối đã qua đời.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
2.- Bán 半 là nửa, một nửa, một phần hai. Như: Bán đảo, bán thân, bán tín bán nghi.
Thánh giáo Thầy có đoạn dạy: Mỗi kẻ phàm dưới thế nầy đều có hai xác thân: Một phàm gọi là Corporel, còn một thiêng liêng gọi là Spirituel, mà cái thiêng liêng do nơi cái phàm mà ra nên gọi nó là bán hữu hình, vì có thể thấy đặng mà cũng có thể không thấy đặng.
Khải tịch nhược hoài thiên tứ cổ,
Chung minh bán điểm khẩn Từ Bi.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Chua cay đã chịu lắm mùi đời,
Bán thế gỡ chưa khỏi vận thời.
(Đạo Sử).
半 途 而 廢
Bán đồ: Nửa đường. Nhi phế: Mà phế bỏ.
Bán đồ nhi phế là nửa đường lại bỏ, ý nói công việc tiến hành làm đến nửa chừng lại bỏ phế.
Thánh giáo Đức Hộ Pháp có câu: Bần đạo nhớ lại lúc ban sơ bị áp bức đủ điều, mà cũng phải cam tâm làm tròn nhiệm vụ. Nếu vì thiếu luyện kỷ thì cũng vì tự ái mà bán đồ nhi phế cũng như ai mà chớ.
Vì ở trong cảnh ngộ đó cũng chưa phải là quá thất vọng chán nãn đưa đến chỗ bán đồ nhi phế, bỏ dở hành trình.
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
Bán lận: Bịp hay lừa gạt để bán ra. Buôn gian: Buôn bán có tính gian manh, xảo trá.
Bán lận buôn gian, như câu “Buôn gian bán lận”, có nghĩa là buôn bán không ngay thẳng, chỉ dùng sự gian lận để gạt người trong sự mua bán.
Như: Kẻ gian thương thường thường bán lận buôn gian mà làm giàu.
Quốc dân ăn thãi uống thừa,
Khôn ngăn bán lận, khó ngừa buôn gian.
(Ngụ Đời).
Bán: Đổi vật để lấy tiền. Mình: Thân mình.
Bán mình, như chữ “Bán thân”, tức là lấy thân mình đem bán, ý chỉ hy sinh bản thân để chuộc tội cho cha mẹ.
Do tích: Nàng Đề Oanh, con gái của Thuần Vu Ý, đời vua Hán Văn Đế đem thân bán vào cung để chuộc tội cho cha.
Thuần Vu Ý bị tội nhục hình nhưng vì ông không có con trai để hậu tự, nàng con gái thứ năm là Đề Oanh dâng thơ cho vua Hán Văn Đế, xin bán mình vào cung để chuộc tội cho cha.
Vua cảm lòng chí hiếu, bèn tha tội cho cha nàng.
Giữ đạo mong chờ ngày độc tịch,
Bán mình quyết cứu độ song thân.
(Thất Nương Giáng Bút).
Bán: Đổi vật mà lấy tiền, lấy lợi. Nài: Cố mời, khẩn khoản xin, yêu cầu.
Bán nài là vừa bán vừa nài xin người mua, ý nói vật mất giá trị nên phải yêu cầu nài ép để bán.
Thánh giáo Đức Chí Tôn trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có dạy: Ðạo là quý, của quý chẳng bán nài, các con đừng thối chí.
Trên chẳng đặng nương vin khúc giữa,
Ðừng cho sụt giá bán nài hàng.
(Đạo Sử).
Hiếu trung đã đủ đôi thân trả,
Mua phẩm Thần Tiên sẽ bán nài.
(Đạo Sử).
Bán mua: Mua và bán. Nguyệt hoa: Trăng hoa, chỉ sự tư tình giữa trai gái, sự ăn chơi đàn điếm.
Bán nguyệt mua hoa là nói hạng gái lầu xanh, chuyên đem việc trăng hoa ra mua bán.
Xem: Buôn hương.
Chỉ những phường bán nguyệt mua hoa,
Đưa hơi quyển ngâm nga trêu sắc gái.
(Phương Tu Đại Đạo).
半 信 半 疑
Bán tín: Một nửa thì tin tưởng. Bán nghi: Một nửa lại nghi ngờ, không tin.
Bán tín bán nghi là nửa tin nửa ngờ, tức chưa tin tưởng hoàn toàn, còn một nửa ngờ vực.
Như: Lời nói của nó khiến tôi bán tín bán nghi.
Nghe chi tiếng vô nhân đạo thính,
Mà để lòng bán tín bán nghi.
(Ngọc Hoàng Thượng Đế).
1.- Bàn là bày tỏ trước nhiều người điều phải trái, hay dở để quyết định một việc gì. Như: Bàn việc Đạo, bàn hơn tính thiệt.
Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông có câu dạy: Nên khá dè chừng, đừng vội luận nhảm bàn khùng mà mang tội thiêng liêng rất uổng, nghe!
Bàn qua thế sự lắm buồn cười,
Nếu cả nhơn sanh phải giống ngươi.
(Đạo Sử).
Lẽ nhục vinh tính tính bàn bàn,
Em làm phải vội vàng khen hết tiếng.
(Phương Tu Đại Đạo).
2.- Bàn là đồ dùng bằng gỗ, hình tròn, vuông hay chữ nhật, dưới có chân, mặt trên phẳng. Như: Bàn ăn, bàn viết, bàn thờ, bàn cầu cơ.
Thánh giáo Thầy có câu: Bàn Thầy giáng cơ thì để trước bàn vọng Ngũ Lôi, khi giáng cơ rồi thì dời đi cho trống chỗ, đặng nhị Ðầu Sư quỳ mà thề.
Anh xây lưng làm mặt ông hoành,
Lên bàn viết vẽ hình đầy sách vở.
(Phương Tu Đại Đạo).
Năng chùi lau, tủ, kiếng, ghế, bàn,
Đừng để đóng làng khan bụi nhện.
(Phương Tu Đại Đạo).
3.- Bàn 蟠 tức là “Bàn đào 蟠 桃” một thứ đào ở nơi Diêu Trì Cung, Đức Phật Mẫu thường dùng để hội yến, gọi là Hội Yến Bàn Đào.
Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Chúng tôi tưởng tượng một ngày kia, khi tu đắc Đạo, về cảnh Thiêng Liêng Hằng Sống, tức nhiên về cảnh Tiên, mới có hạnh phúc, mới có thể Hội Yến Diêu Trì hưởng Tiên Tửu, hưởng Bàn Đào, chớ đâu có ngờ Hội Yến Diêu Trì là hội ngộ các vị Tiên Nương tại mặt thế gian này.
Rượu cúc Bàn Ðào chờ hội ẩm,
Thuốc Tiên lò tạo giữ sanh tồn.
(Lục Nương Giáng Bút).
Bàn: Bày tỏ điều phải trái, hay dở để quyết định một việc gì, hoặc vấn đề gì.
Bàn bạc, như chữ “Bàn luận”, là cùng thảo luận, trao đổi ý kiến qua lại với nhau để có sự phân tích lý lẽ.
Như: Trước khi làm, phải bàn bạc cho chắc chắn.
Đang lúc quốc dân bồng bột giành giựt vì sanh kế, mà đem vấn đề Tu Thân ra bàn bạc thiết tưởng cũng một sự rất hạp thời.
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
Bàn Cai Quản Phước Thiện là một ban có nhiệm vụ cai quản, điều hành về hoạt động phước thiện trong một quận Đạo của Đạo Cao Đài.
Theo Đạo Luật năm Mậu Dần, mỗi nhà Sở Phước Thiện trong một Quận Đạo bầu ra một Bàn Cai Quản để điều hành Nhà Sở ấy. Mỗi Bàn Cai Quản có ít nhứt 12 người Chức việc: 1 Chủ Trưởng, 1 Phó Chủ Trưởng, 1 Thủ Bổn, 1 Phó Thủ Bổn, 1 Từ Hàn, 1 Phó Từ Hàn và 6 Nghi Viên. Trong 6 Nghị Viên, cử ra 2 vị Kiểm Soát.
Các Chức việc nầy, buộc phải hiến thân trọn đời vào Sở Phước Thiện. Vị Chủ Trưởng phải lựa chọn công cử trong hàng Chủ Sở Lương Điền Công Nghệ.
Bàn Cai Quản Phước Thiện có nhiệm vụ:
- Chăm lo các cơ sở Lương điền, Công nghệ thuộc Sở Phước Thiện mình đang cai quản.
- Mỗi tháng họp ít nhất 2 kỳ.
- Nếu xa Thánh Thất thì được nhóm tại nhà sở Phước Thiện.
Mỗi Nhà Sở Phước Thiện trong Quận Đạo phải cử ra một Bàn Cai Quản để lãnh trách nhiệm Chủ Trưởng Nhà Sở ấy.
(Đạo Luật Mậu Dần).
盤 古
Theo truyền thuyết Trung Hoa, Bàn Cổ là tên một ông vua thuỷ tổ của loài người và của cả muôn loài khác, cũng như A đam trong thần thoại Cơ Đốc giáo.
Tương truyền, khi trời đất đã định vị thì vua Bàn Cổ đã xuất hiện trị đời.
Miền Đông Á, vẫn từ đời Bàn Cổ, xưa đã bao phen Đạo Thánh dẫn nhơn sanh,
Đất Việt Nam, khai những thuở Hồng Bàng, nay mới gặp lúc thuyền linh đưa bến khổ.
(Văn Tế Thượng Phẩm).
Bàn: Vật bằng gỗ hay sắt có mặt phẳng, như Bàn ủi, bàn chải. Chông: Những vật có đầu nhọn, sắc bén.
Bàn chông là một mảnh gỗ, tre hoặc sắt làm đế, trên có cắm các mũi chông nhọn, dùng để làm bẫy, làm vật chướng ngại, hoặc làm hình cụ tra khảo.
Bàn chông nhọn liền liền đánh khảo,
Tra tội nhơn, gian giảo ngược ngang.
(Kinh Sám Hối).
蟠 桃
Hay “Hội Bàn Đào”.
Bàn đào là tên một loại đào Tiên của bà Tây Vương Mẫu, ba nghìn năm mới kết quả.
Theo sách Hán cổ sử: Vua Hán Võ Đế cầu bà Tây Vương Mẫu, được ban cho bốn quả đào Tiên và cho biết rằng: Cây bàn đào ba ngàn năm mới nở hoa, ba ngàn năm nữa mới kết quả, ăn được một quả thì sống đời đời.
Theo Đạo Cao Đài, Hội Bàn Đào gọi là Hội Yến Diêu Trì Cung được tổ chức hằng năm tại Toà Thánh vào ngày rằm tháng tám để hiến lễ Đức Phật Mẫu và Cửu Vị Tiên Nương.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Chúng tôi tưởng tượng một ngày kia, khi tu đắc Đạo, về cảnh Thiêng Liêng Hằng Sống, tức nhiên về cảnh Tiên, mới có hạnh phúc, mới có thể Hội Yến Diêu Trì hưởng Tiên Tửu, hưởng Bàn Đào, chớ đâu có ngờ Hội Yến Diêu Trì là hội ngộ các vị Tiên Nương tại mặt thế gian này.
Xem: Hội Yến Diêu Trì Cung.
Hội Bàn Đào, Diêu Trì Cung,
Phục sinh đào hạnh rượu hồng thưởng ban.
(Kinh Tận Độ).
Rượu cúc Bàn Ðào chờ hội ẩm,
Thuốc Tiên lò tạo giữ sanh tồn.
(Đạo Sử).
蟠 桃 會 宴
Bàn đào: Tên một loại đào Tiên của bà Tây Vương Mẫu (hay Diêu Trì Kim Mẫu). Hội yến: Tham dự vào tiệc rượu.
Bàn Đào Hội Yến, như chữ “Hội Yến Diêu Trì 會 宴 瑤 池”, là một yến tiệc long trọng của toàn tín đồ đạo Cao Đài tổ chức vào ngày rằm tháng 8 hằng năm để thết đãi Đức Phật Mẫu và Cửu Vị Tiên Nương.
Xem: Hội Yến Diêu Trì.
Bàn Đào Hội Yến nghinh Kim Mẫu,
Bửu Điện linh quang phủ đỉnh trầm.
(Thơ Huệ Phong).
盤 桓
Bàn hoàn có nghĩa là băn khoăn, loanh quanh, bịn rịn, hay do dự không dứt khoát, không quyết định.
Như: Nghe tin lòng bỗng nhiên bàn hoàn, nỗi riêng riêng những bàn hoàn.
Vó ký ngàn dâu khuất dặm đường,
Bàn hoàn lòng khách giục quày cương.
(Thơ Cao Quỳnh Cư).
Khương Tử Nha lúc còn hàn vi ngồi câu cá ở sông Vị tại Bàn Khê. Sau vua Văn Vương nhà Châu đi săn bắn, gặp ông rước về tôn làm thầy. Ông đã giúp cho vua Văn Vương và Võ Vương dựng nên nghiệp nhà Châu.
Ông Khương Thượng một lòng nhẫn nại,
Câu vận thời ngồi tại Bàn Khê.
(Lược Thuật Toà Thánh).
Bàn: Bàn thờ. Linh: Thuộc người chết, Linh vị.
Bàn linh hay Bàn vong là một cái bàn thờ tang, đặt trước linh cữu người chết trên đó có thiết đặt một Linh vị và trước Bàn vong có treo một tấm vải trắng có viết chữ Nho, gọi là tấm Phủ nghi.
Trước nhứt đặt một cái bàn nhỏ, gọi là bàn độc trước Linh cữu để dọn cơm canh cúng tế cho người chết. Kế đó, đặt trước bàn độc một cái ghế nghi, gọi là Bàn linh hay Bàn vong. Trên Bàn linh ở giữa phía bên trong đặt một tấm Linh vị, bên trái Bàn linh là bình hoa, và bên phải là đĩa quả. Hàng kế, ở giữa để một cây đèn vọng. Hàng tiếp theo, ở giữa có một ly nước trà và một ly rượu. Hàng ngoài cùng ở giữa đặt một lư hương và hai bên là cặp chân đèn.
Ngùi trông đỉnh hộ mây u ám,
Chạnh ngắm bàn linh ảnh rụng rời.
(Thơ Vạn Năng).
Bàn: Bày tỏ điều phải trái, hay dở để quyểt định một vấn đề. Luận: Bàn bạc, biện luận.
Bàn luận là bàn bạc và thảo luận, tức là đưa ra một vấn đề trao đổi qua lại với nhau để có sự phân tích lý lẽ.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Tâm hay là Lương Tâm là một vấn đề mà về mặt Ðạo người ta đã có nhiều bàn luận đến, nhưng lý thuyết thì vẫn có mà thực hành ít ai để ý đến.
Bần Đạo cữ không nên bàn luận,
E quá lời sanh giận lòng nhau.
(Phương Tu Đại Đạo).
Bàn luận sử kinh từng thoả thích,
Xướng hoà thơ phú mặc vui say.
(Thơ Võ Thành Lượng).
Bàn: Bàn bạc, là bày tỏ điều phải trái hay dở để quyết định. Tính: Toan tính.
Bàn tính là bàn bạc và tính toán, tức cân nhắc các mặt lợi hại, nên hay không nên làm.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Từ đây, mỗi lần nhóm Bàn Chủ Sự đặng liệu tính việc chi thì con phải có mặt và y theo lời Thầy dạy, phải có ba Chức sắc Hiệp Thiên Ðài có trách nhậm xứng đáng, thì những việc bàn tính mới tiện thi hành.
Thầy đã có lời dặn con về việc phổ độ tha phương thì con cứ đó mà làm. Nhưng trước hết phải hiệp nhau mà bàn tính.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
Trong đạo Cao Đài, Bàn Trị Sự là một ban gồm các Chức Việc, có nhiệm vụ quản lý và điều hành công việc Đạo tại một Hương, tức là một Xã Đạo.
Bàn Trị Sự Hương Đạo gồm có một vị Chánh Trị Sự, được gọi là Đầu Sư Em, làm Đầu Hương Đạo. Dưới Chánh Trị Sự gồm nhiều Phó Trị Sự và Thông Sự. Thường mỗi Ấp Đạo chọ cử ra một Phó Trị Sự và một Thông Sự.
Phó Trị Sự được gọi là Giáo Tông Em, thay mặt Chánh Trị Sự về hành chánh trong một Ấp Đạo, còn Thông Sự được gọi là Hộ Pháp Em, có nhiệm vụ trông coi về luật pháp của một Ấp Đạo. Tất cả những Chức việc Bàn Trị Sự được gọi chung là Hội Thánh Em.
Bàn Trị Sự nên chọn cử hạng người tài đức, bất luận là thanh niên hay là bậc trưởng lão, miễn vị ấy đặng phần đông tín nhiệm là đủ.
(Đạo Luật Mậu Dần).
Bàn: Đồ dùng bằng gỗ có mặt phẳng và chân đứng, để ngồi viết hoặc bày thức ăn, hay đồ đạc. Viết: Kẻ, vạch ra chữ.
Bàn viết, như chữ “Bàn giấy”, là cái bàn dùng để ngồi viết chữ.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Khi nọ, Chí Tôn biểu Bần Ðạo lại kệ "bàn viết" có sắp một dãy nhựt trình đặng rút ra hai tờ.
Anh xây lưng làm mặt ông hoành,
Lên bàn viết vẽ hình đầy sách vở.
(Phương Tu Đại Đạo).
本 真
Bản (Bổn): Cái gốc, cội rễ. Chân (Chơn): Chơn như, trạng thái chân thật của vạn hữu trong vũ trụ.
Bản chân, hay Bổn chơn là bản thể chân thật thường trụ của vạn pháp. Thực tại tuyệt đối của vạn hữu, trái với thế giới hiện tượng, hư vọng biến đổi vô thường.
Bản chân chỉ cõi Hằng Sống.
Nhưng đời chưa tỉnh giấc mê,
Tìm phương giải thoát trở về bản chân.
(Thiêng Liêng Hằng Sống).
本 質
Bản (Bổn): Cái gốc, cội rễ. Chất: Bản thể của sự vật.
Bản chất là chất gốc, tức chất chính của một vật có từ lúc mới sinh, chưa bị ảnh hưởng bên ngoài.
Nói về sự luân hồi của phàm thể, quyển Giáo Lý của Ngài Tiếp Pháp Trương Văn Tràng có đoạn: Cả Cơ chuyển sanh, biến kiếp đều do khí Âm Dương, Ngũ Hành diệu hợp mà nên thể chất và trưởng thành, nghĩa là từ buổi thành hình trong bào thai đến khi ra đời và nên vai nên vóc, lúc nào cũng nhờ khí Âm Dương, Ngũ Hành sanh dục, trưởng dưỡng đến mãn kỳ sanh thọ thì thể xác tiêu tan. Lúc bấy giờ, Tứ Đại (Địa, Thuỷ, hoả, Phong) phục huờn nguyên về bản chất tự nhiên của nó, để rồi chuyển hoá hình hài khác nữa.
Các con lại làm sai lạc bản chất, tôn chỉ của nền Thánh giáo.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
本 領
Bản: Gốc, vốn sẵn có. Lĩnh (lãnh): Cổ áo, trông coi khắp cả.
Bản lĩnh, hay “Bản lãnh”, nghĩa đen là cái gốc và cái cổ áo, nghĩa là cái cốt, tức đức tính tự quyết định bằng tài sức hay khả năng của một người, không vì áp lực bên ngoài mà thay đổi quan điểm.
Như: Việc nầy phải giao cho người có bản lĩnh mới giải quyết được.
May cũng già tay tràn né dịch,
Bằng không bản lĩnh chết nhăn toi.
(Thơ Huệ Ngàn).
本 我
Bản: Gốc, vốn. Ngã: Ta, cái ta.
Bản ngã 本 我 là cái làm nên tính cách riêng của mỗi con người, tức cái ta hay cái tôi.
Đạo Phật chủ trương thuyết vô ngã, vì con người chỉ là tập hợp của ngũ uẩn, năm uẩn nầy đều thay đổi từng giây từng phút, ở trong năm uẩn đó không có cái gì gọi là Ta, hay của Ta thường còn bất biến cả. Chính vì chúng sanh chấp cái thân ngũ uẩn nầy là bản ngã, tức Ta hay của Ta mà phải chịu cảnh luân hồi sinh tử.
Diệt được cái Ta (diệt ngã) là đoạn được cái tư tâm ngã kiến, trừ được vị kỷ mà quay về vị tha., quên mình để làm lợi cho người.
Người tu hành nếu không lo diệt bản ngã thì chẳng thể nào bỏ vọng về chơn, đoạn mê theo giác, mà thoát ra khỏi vòng luân hồi sinh tử được.
Trong Thuyết Đạo, Đức Thượng Sanh có đoạn dạy: “Nơi cửa Ðạo, người hành đạo phải làm gương mẫu cho nhơn sanh và muốn lập chữ tâm phải quên được cái “Bản ngã” thường tình. Trừ bỏ được bịnh chỉ biết có mình, hành vi nào cũng được trong sạch, khỏi bận tâm lo mất còn thiếu đủ. Trong cảnh hèn sang, vui khổ, phải chia sớt với tất cả bạn đồng hành, sự tương thân, tương ái mới được trọn vẹn.
Lưu Hướng Liệt Nữ truyện Trung Hoa có chép một truyện như sau đây: “Lúc Xuân Thu, nước Tề cử binh phạt nước Lỗ. Khi đến chỗ giáp giới, viên tướng chỉ huy binh Tề trông thấy một người đàn bà một tay bồng đứa bé, tay kia dắt một đứa bé nữa. Quân tràn tới, người đàn bà vội bỏ đứa bé đang bồng trên tay xuống, xốc đứa bé đang dắt, rồi hơ hải chạy trốn vào rừng. Ðứa bé bị bỏ, chạy theo la khóc, người đàn bà cứ lo chạy không ngó lại.
Viên tướng Tề sai quân bắt lại và hỏi: “Ðứa bé nàng bồng chạy là con ai, đứa bé bỏ lại là con ai?”.
- Thưa, đứa tôi bế chạy là con của anh cả tôi, đứa tôi bỏ lại là con tôi. Vì không thể bảo toàn cả hai đứa, nên tôi phải bỏ con tôi.
– Tướng Tề nói: “Tình mẹ con không đau xót sao? Ai nở bỏ con mình để cứu lấy con của anh là thế nào?”.
- Con của tôi là tình riêng, con của anh tôi là “nghĩa công”, bỏ con đẻ tuy đau xót, nhưng muốn làm tròn nghĩa công, tôi phải lìa nó mà cứu con anh tôi. Tôi không thể nào mang tiếng “vô nghĩa” mà sống ở nước tôi được.
Viên tướng Tề dừng binh lại, đợi vua Tề đi tới quỳ tâu: “Nước Lỗ chưa thể đánh được. Quân ta mới tới biên giới, đã thấy một kẻ phụ nhơn ở xó rừng góc núi còn biết chẳng vì tình riêng mà hại nghĩa công huống chi là những bậc quan lại sĩ phu trong nước. Vậy xin kéo binh về là hay hơn.”
Vua Tề cho là phải.
Nhờ vậy người đàn bà bảo toàn cả hai đứa bé và sau được Vua nước Lỗ thưởng một trăm tấm lụa và tặng hai chữ “nghĩa cô”.
Ðó là tâm lý xử nghĩa của một người đàn bà ở tận góc núi ven rừng nơi trường đời.
Khi người ta bỏ được thuyết “Bản ngã” ra ngoài hành động trông ra chánh đáng và cao thượng làm sao!
Nơi cửa Ðạo, chủ nghĩa giác thế độ đời lại cao cả hơn nữa. Nếu tâm vẫn còn chịu khổ để lo cái “của mình” còn hay mất, được hay thua, thêm hay bớt thì phận sự Ðạo làm sao cho trọn?”.
Diệt bản ngã bỏ quyền dụng lý,
Khử tư tâm hiệp ý Ðại-Ðồng.
Làm cho thế giới lưu thông,
Dân quyền xướng dậy đời hồng âu ca.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
本 身
Bản: Gốc, thuộc về phần mình. Thân: Thân mình.
Bản thân là tiếng dùng để chỉ chính cá nhân, chính ngay sự vật nào đó.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Chức Sắc đã hiến thân cho Ðạo, quyết xả thân để phụng sự nhơn loại thì bản thân không còn là của mình nữa, phải chết về mặt đời, sống về mặt Ðạo, tận tuỵ với nhiệm vụ, không nệ khó khăn lao nhọc thì mới đúng với sự hiến thân của mình.
Cầu tiến bản thân đời hữu dụng,
Dinh hư tạo hoá lẽ xoay vần.
(Thơ Thành Đức).
Bản thân thường chuộng theo đường chánh,
Bẩm tính hằng ghi tránh nẻo tà.
(Thơ Thái Minh).
本 處
Bản: Gốc, thuộc về phần mình. Xứ: Chốn, nơi, miền.
Bản xứ là bản thân đất nước (thuộc địa) được nói đến, thường hàm ý coi khinh.
Như: Vào thời Pháp thuộc, nơi vùng mất an ninh, người bản xứ thường bị nghi ngờ.
Cùng là các nước thân yêu,
Và dân bản xứ thảy đều chung lo.
(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).
Bạn là người thân thiết với mình tuy không phải trong vòng bà con. Như: Bạn bè, bạn học, bạn hàng, giàu đổi bạn sang đổi vợ.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Lý Giáo Tông có câu: Lão mang nặng tình nghĩa cùng một bạn thiêng liêng vì đời lãnh mạng, tạo Ðạo đặng cứu chúng sanh mà phải chịu mông trần vào cảnh đọa.
Coi gương trước Thánh Hiền ghi lại,
Kết bạn nhau đạo ngãi làm sao.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Gái lớn lên giữ chữ phụ tùng,
Trai chớ khá buông lung theo chúng bạn.
(Phương Tu Đại Đạo).
Bạn: Người thân với mình nhưng không phải là bà con. Bè: Phe, đảng.
Bạn bè là những người cùng kết thân với nhau.
Nói về ý nghĩa của ngày Xuân, Đức Thượng Sanh có dạy: Ngoài ra, người ta chúc lành cho thân quyến, bạn bè và đi đến Chùa, Miếu, Ðền thờ để cầu phúc cho gia tộc, rồi thì tính toán đường lối xoay trở trong nghề nghiệp để thi thố cho có kết quả tốt đẹp, khi bắt tay vào công việc sẽ tới.
Rằng quyền thay đổi căn nhân sự,
Gia đạo hưng suy nghĩa bạn bè.
(Thiên Thai Kiến Diện).
Bạn: Người quen có quan hệ với nhau việc mua bán. Hàng: Sản phẩm để bán, nơi bán hàng.
Bạn hàng là người cùng buôn bán.
Bạn hàng còn dùng để chỉ khách hàng quen, trong quan hệ với người bán hàng.
Như: Chị ta là bạn hàng ở chợ.
Mắt tinh đời độ khách dân, quan,
Hèn sang cũng bạn hàng đồng thể.
(Phương Tu Đại Đạo).
Nhiều bạn hàng làm bảnh nói hơn,
Mình vui vẻ đừng hờn lại trọng.
(Phương Tu Đại Đạo).
伴 侶
Bạn: Người quen biết và có quan hệ gần gũi, coi nhau ngang hàng. Lữ: Bạn bè.
Bạn lữ tức là cùng trang lứa làm bạn bè với nhau.
Mãn kiếp những nỗi mình, mình xử,
Nào mong chi bạn lữ giúp nên.
(Phương Tu Đại Đạo).
Dầu kén chọn vào hàng bạn lữ,
Nên cho em hạng thứ trên người.
(Phương Tu Đại Đạo).
Bạn: Người quen biết và có quan hệ gần gũi, coi nhau ngang hàng. Tác: Tuổi tác.
Bạn tác tức là bạn bè cùng tuổi tác, cùng trang lứa với nhau.
Bia kỷ niệm Đức Cao Thượng Phẩm có câu: Ô hô! Thiên cơ tiền định người dễ thấu đâu, những ngỡ tay rường cột sum vầy cùng bạn tác, chung lo đắp nền Ðạo giữa trời Nam, nào hay đâu số mạng bốn tuần dư dâng Thánh chỉ trở về Kinh Bạch Ngọc.
Tánh ngoan ngạnh không vì cô bác,
Thói lăng loàn bạn tác khinh khi.
(Kinh Sám Hối).
Anh em bạn tác vầy đông,
Xô thành cũng ngã, lấp sông cũng bằng.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Mình dầu đồng bạn tác cùng quan,
Đừng hổ phận bần hàn cha mẹ.
(Phương Tu Đại Đạo).
Bạn: Người thân ngang hàng, hợp tình ý nhau. Trăm tuổi: Như chữ Trăm năm, chỉ trọn đời người.
Bạn trăm tuổi, như chữ “Bạn trăm năm”, là chỉ vợ hoặc chồng, trong quan hệ gắn bó trọn đời.
Bạn trăm tuổi thân hoà làm một,
Dầu sang hèn xấu tốt cũng duyên.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Bạn: Bè bạn, người có quan hệ gần gũi, ngang hành nhau, hợp tình ý. Vàng: Chỉ sự quý báu.
Bạn vàng, do chữ “Kim bằng 金 朋”, dùng để chỉ người bạn quý và thân thiết.
Thủ túc tình thâm ấy bạn vàng,
Đừng phân anh tiện với em sang.
(Phương Tu Đại Đạo).
Mừng gặp bạn vàng tay siết chặt,
Mê hồi tiệc ngọc khách chưa rồi.
(Thơ Vạn Năng).
旁 舉
Bàng Cử là hiệu của Nhạc Phi.
Nhạc Phi là một danh tướng đời nhà Tống, sanh ở huyện Thang Âm, làm đến chức Ðại Nguyên Soái đời vua Cao Tông.
Ông một lòng tận trung báo quốc, đem quân đi đánh thắng nước Liêu, bảo vệ bờ cõi, nhưng vua Cao Tông hôn ám, dùng kẻ gian thần là Tần Cối làm Tể Tướng, để Tần Cối gièm pha hãm hại giết chết Nhạc Phi.
Xem: Nhạc Phi.
Tam ưu Bàng Cử trắng đầu non,
Mua lấy chức quan đức phải mòn.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
傍 門
Bàng: Một bên. Môn: Cửa.
Bàng môn là cửa bên hông, chớ không phải cửa chánh. Ý nói không phải Ðạo Chánh.
Bàng môn là chỉ các tôn giáo không chơn chánh, đưa người tu đến chỗ lầm lạc, không thành Chánh quả, không giải thoát khỏi luân hồi.
Thánh Giáo Đức Thích Ca Như Lai có dạy: Phép hành đạo Phật giáo dường như ra sái hết, tương tợ như gần biến Tả Ðạo Bàng Môn. Kỳ truyền đã thất, chư sơn chưa hề biết cái sai ấy do tại nơi nào, cứ ôm theo luật Thần Tú, thì đương mong mỏi về Tây phương mà cửa Tây phương vẫn cứ bị đóng, thì cơ thành Chánh quả do nơi nào mà biết chắc vậy.
Phước Thiện nuôi nấng tinh thần,
Phước Thiện cứu kẻ lạc gần bàng môn.
(Thất Nương Giáng Bút).
Phá cho Thánh giáo nát tan,
Dẫn người lương thiện vào đàng bàng môn.
(Nguyễn Trung Trực Giáng).
Chơn thành đạo đức vô thinh sắc,
Giả tướng bàng môn trọng hữu hình.
(Thơ Thông Quang).
旁 觀
Bàng: Bên cạnh, bên ngoài. Quan: Xem, xem xét.
Bàng quan là đứng ngoại cuộc mà nhìn, tức chỉ người đứng bên ngoài mà xem, coi là không dính líu tới mình, không dự gì tới.
Như: Có thái độ bàng quan với thời cuộc.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Bởi họ hiểu thấu huyền vi mầu nhiệm sống chết còn mất của họ, nếu lấy đạo đức làm căn bản bảo sanh cho họ, thì chúng ta bất quá giống như kẻ bàng quan kia vì thấy một nhơn vật họ không biết cái sống của họ, họ chưa định giá trị kiếp sống của họ hay là phương sống của họ.
Người bàng quan còn phải xử trí như thế, huống chi ông bà là ruột thịt của cha mẹ mà chúng ta không tôn kính sao?
(Giáo Lý).
龐 絹 孫 儘
Bàng Quyên là người nước Nguỵ đời Chiến Quốc, cùng Tôn Tẫn học một thầy là Quỷ Cốc Tiên Sinh, nhưng thua tài Tôn Tẫn, nên thường tìm cách hãm hại.
Bàng Quyên giả mạo chứng cớ, cáo buộc Tôn Tẫn tư thông nước Tề để hại nước Nguỵ. Huệ Vương nghe lời sàm tấu của Bàng Quyên, bắt Tôn Tẫn chặt chân và thích vào trán bốn chữ “Tư thông ngoại quốc”.
Bàng Quyên làm quân sư cho Nguỵ Huệ Vương, cầm quân đánh đâu thắng đó nên sinh ra kiêu căng ngạo mạn. Sau Tôn Tẫn giúp Tề, đem quân dụ Bàng Quyên tới Mã Lăng rồi cho phục binh bắn chết theo lời thề.
Xem: Tôn Tẫn.
Bàng Quyên nỡ chặt chân Tôn Tẫn,
Đã nhờ người tiến dẫn Nguỵ Vương.
(Báo Ân Từ).
榜
Bảng là vật có mặt phẳng, làm băng ván mỏng, hay bện bằng tre, dùng để viết chữ hoặc dán những gì cần nêu cho mọi người xem.
Như: Bảng viết, bảng yết thị, bảng vàng, kim bảng.
Thánh giáo Thầy có câu: Ôi! Thầy vì mấy chục ức nguyên nhân, không nỡ để cho ngôi phẩm tan tành, chớ lấy luật Thiên thơ thì không một ai dự vào kim bảng.
Linh Tiêu Điện, bảng danh nêu,
Nguyên căn đẹp vẻ mỹ miều cao thăng.
(Kinh Tận Độ).
Dùng kiểng vật đá cây làm bảng,
Dạy đếm cho biết đặng đến mười.
(Phương Tu Đại Đạo).
Bảng: Vật bằng ván mỏng dùng để viết tên những người thi đỗ. Hổ: Cọp.
Bảng hổ, do chữ “Hổ bảng 虎 榜”, là bảng có vẽ hình con hổ, dùng để ghi tên hay niêm yết những người thi đỗ.
Đời nhà Mãn Thanh nước Trung Hoa chỉ võ khoa là hổ bảng.
Ở Việt Nam, Long bảng (Trên bảng có vẽ rồng) đề tên những người đậu Tiến sĩ; Hổ bảng (Vẽ cọp) đề tên những người đậu Cử nhân; Mai bảng (Vẽ cây mai) đề tên những người đậu Tú tài.
Đội niếp Tô Chương nêu bảng hổ,
Mang bầu Nhan Tử chiếm khoa tràng.
(Thơ Thái Đến Thanh).
Mong thấy vinh quy trường khổ hạnh,
Chờ xem bảng hổ hội lương tài.
(Thơ Hoàn Nguyên).
Bảng lảng là lạnh nhạt, lơ là, thờ ơ, không để tâm chú ý tới. Như: Nó bảng lảng như người không quen biết.
Bảnh lảng còn có nghĩa là lờ mờ, không rõ nét, hoặc bát ngát, buồn bâng khuâng.
Trời chiều bảng lảng bóng thiều quang,
Tiếng trống thu không giục khách nhàn.
(Thơ Tiếp Pháp).
Bảng: Tấm bảng dùng để yết thị danh tánh người thi đỗ, hay người có công. Ngọc: Tiếng tôn xưng, quý báu.
Bảng ngọc, như chữ “Ngọc bảng 玉 榜”, dùng để chỉ bảng niêm yết tên những người đỗ khoa thi, hoặc những người tu đắc đạo.
Phong tước Thiên Tiên bảng ngọc đề,
Giác rồi trở lại độ người Mê.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
Bảng Phong thần, như chữ “Phong thần bảng 封 神 榜”, là một bảng danh sách ghi tên họ những người tu hành, thiếu phẩm hạnh, thiếu công đức để vào hàng Thánh, Tiên và Phật vị, mà phải chịu vào hàng phẩm Thiên Thần.
Bảng Phong thần do Đức Nguơn Thỉ Thiên Tôn lập ra vào thời Nhị Kỳ Phổ Độ thuộc nhà Châu bên Trung Hoa. Khương Tử Nha thay mặt cho thầy là Nguơn Thỉ Thiên Tôn, chiếu theo danh sách trong Bảng Phong thần mà sắc phong cho chư chơn linh các tướng sĩ hoặc các vị Đạo sĩ đã chết vào hàng phẩm Thần vị.
Lập bảng Phong Thần ta chủ khảo,
Càn Khôn biết mặt gậy cùng nai.
(Thiên Thai Kiến Diện).
Đường tu ví chẳng dày công đức,
Nhập bảng Phong thần khó nổi binh.
(Thơ Thái Đến Thanh).
Bảng: Tấm bảng dùng để yết thị danh tánh người thi đỗ, hay người có công. Vàng: Thếp vàng.
Bảng vàng, như chữ “Kim bảng 金 榜”, tức là bảng có thếp vàng, đề tên những vị tân khoa đỗ Tiến sĩ trong thời khoa cử ngày xưa của Việt Nam.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Sanh ra nơi trần thế, người hữu học có công thập niên đăng hoả thì ai cũng muốn chen vào trường ốc, mong chiếm bảng vàng hầu lập nên sự nghiệp vẻ vang, làm đẹp mặt nở mày cho cha mẹ.
Xem: Kim bảng.
Nông nả Long vân chờ gặp hội,
Bảng vàng tên tạc thoả tình thâm.
(Thơ Hoàng Nguyên).
Bảng vàng tên tuổi đề vang dội,
Trường đạo công phu gắng miệt mài.
(Thơ Chơn Tâm).
1.- Bánh là món ăn chế biến bằng các thứ bột, thường có chất ngọt, mặn, béo.
Như: Bánh chưng, bánh bao, bánh bèo, nhân bánh, gói bánh.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Cũng như đứa con trong nhà thấy cha có bánh nhiều hơn tức phải bỏ má. Ông cha họ có đủ tài đức đủ quyền bảo vệ họ, họ bợ đỡ nương theo đặng sống. Làm mẹ bất tài thì chúng phải nương sống theo cha, có gì là lạ.
Chị làm bánh cậy nhồi mớ bột,
Trộn một hồi thành lấy cốt trùng.
(Phương Tu Đại Đạo).
2.- Bánh là bộ phận của xe hoặc máy có dạng dĩa tròn lắp nan hoa, quay quanh một trục để chuyển động.
Như: Bánh xe, bánh trớn, bánh lái tàu thuyền.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Tự cổ chí kim, vì không giữ mình được trong sạch cho nên con người phải chịu làm nô lệ cho xác thịt để cho dục vọng lôi cuốn gây thành tam nghiệp tức là thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp, phải bị chìm đắm trong vòng sanh tử luân hồi, chẳng khác chi tự mình trói buộc vào một cái bánh xe, cứ quay cuồng mãi mãi không biết bao giờ tháo mở được.
Dẫy xe trâu Côn Lôn trỗi bánh,
Lý Lão Quân mong lánh phong trần.
(Kinh Thế Đạo).
Bánh ếch đi: Bánh ếch cho đi. Bánh quy lại: Bánh quy trả lại.
Bánh ếch đi, bánh quy lại là một câu tục ngữ Việt Nam, khuyên người ta nên giữ sự công bằng, hễ tặng bánh ếch đi thì phải gởi bánh quy trả lại.
Bánh ếch mãi đi... càng khó nghĩ,
Bánh quy không lại... cũng hơi phiền.
(Thơ Hoàng Nguyên).
Bánh: Bộ phận có thể điều khiển chuyển động xoay tròn trên một trục. Lái: Bộ phận dùng để điều khiển các phương tiện vận tải, như xe, tàu.
Bánh lái là bộ phận xoay được dùng để đổi hướng di động của phương tiện vận tải như xe, tàu, thuyền...
Tại ngôi Bắc Ðẩu, con phải vẽ hai cái bánh lái cho đủ và sao Bắc Ðẩu cho rõ ràng.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
Bánh: Món ăn chế biến bằng bột, có hình khối, thường là ngọt hay mặn béo. Trái: Quả.
Bánh trái là nói chung là các loại bánh để ăn.
Như: Cửa hàng có bán nhiều loại bánh trái.
Công là hay học chuyện bá xàm,
Trăm bánh trái, bao hàm nhà cửa.
(Phương Tu Đại Đạo).
Bánh: Món ăn chế biến bằng bột, có hình khối, thường là ngọt hay mặn béo. Vẽ: Dùng bút mà tả hình trạng các vật như thực.
Bánh vẽ là hình vẽ của chiếc bánh, thấy mà ăn không được, thường dùng để ví cái trông có vẻ tốt đẹp, nhưng là cái không có thật, lừa bịp.
Ðạo trễ một ngày thì hại cho chúng sanh một ngày, mà mỗi đứa đều gây ác cảm, làm cho mối Ðạo thành ra bánh vẽ, thì chừng nào Ðạo trọn thành nơi đây?
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
膨 城
Bành Thành là tên đất ngày xưa của nước Tàu.
Vào đời Xuân Thu, Bành Thành là một ấp của nước Tống. Sau nước Tần đặt thành huyện, nay là Từ Châu Thị, thuộc tỉnh Giang Tô.
Thiền cao chưa đủ đỡ muôn linh,
Như thuở Hạng Vương ở Bành Thành.
(Đạo Sử).
澎 漲
Bành: Nước chảy mạnh. Trướng: Nước dưới sông rạch lớn lên, đầy dẫy lên.
Bành trướng là phồng to ra.
Bành trường còn có nghĩa là dương rộng ra, hay mở rộng khu vực tác động ra.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Trong lúc khói lửa chiến tranh còn bao trùm đất nước, nền Ðại Ðạo tuy không được bành trướng khả quan nhưng nhờ sự trung thành và sự tận tâm phục vụ của phần đại đa số Chức sắc nơi Trung ương và Ðịa phương, nên phương diện tinh thần của Ðại Ðạo vững mức cao siêu, cái danh liêm khiết của Hội Thánh cũng như chí hy sinh của Chức sắc được các giới trí thức ngoài mặt đời ngợi khen và kính nể.
Bần Đạo hôm nay mới đặng cái quyền và năng lực bành trướng như thế nầy.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
Bảnh là sang, đẹp, tài giỏi có khả năng hoàn hảo, vượt trội hơn người.
Như: Anh ta ăn diện rất bảnh, tay lao động bảnh, làm mặt bảnh.
Nhiều bạn hàng làm bảnh nói hơn,
Mình vui vẻ đừng hờn lại trọng.
(Phương Tu Đại Đạo).
Bởi gà là đứa vô suy,
Tưởng đâu mình bảnh nên thì tự cao.
(Thơ Hộ Pháp).
1.- Bao là ít hay nhiều, lâu hay chóng. Như: Biết bao mà kể, xiết bao thảm sầu, bao điều tội lỗi.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Xưa các Thánh làm cho nên mối Ðạo biết bao là công trình ngày tháng!
Lợi danh đã đoạ biết bao người,
Nhiều kẻ nay còn ý dể ngươi.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Bỏ đức bỏ nhân bao kiếp đọa,
Khuyên con giữ Ðạo đến cùng Thầy.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
2.- Bao 包 là bọc ở ngoài, cho chứa được các vật, tóm quát cả. Như: bao bọc, bao phủ, bao quanh, bao dung.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Tôi cầu xin cho trong Cửa Ðạo chúng ta thắt chặt dải đồng tâm càng ngày thêm khắng khít, xoá bỏ những hờn nghịch nhỏ nhen, nên coi Ðại nghiệp của Ðạo là quý trọng đễ cùng nắm tay dìu dắt nhau vẹt ngút mây mù cứ vẫn bao phủ quanh vùng Thánh địa hầu đi đến một giai đoạn vui vẻ hơn.
Một làn ác khí bao ràng rịt,
Muôn xác tinh ma nhảy dập dìu.
(Thiên Thai Kiến Diện).
3.- Bao 褒 là khen, không dùng một mình. Như: Bao biếm (khen chê), Bao thưởng (khen và ban thưởng).
Xem: Bao biếm.
Tán tụng công đức hiền nhân,
Bao biếm thiện ác, cân phân rõ ràng.
(Báo Ân Từ).
褒 貶
Bao: Khen. Biếm: Chê.
Bao biếm là khen và chê.
Người đời sau, khi nói về quyển kinh Xuân Thu của Đức Khổng Tử có câu như sau: Nhất tự chi bao, vinh ư hoa cổn; nhất tự chi biếm, nhục ư phủ việt 一 字 之 褒, 榮 於 華 袞, 一 字 之 貶, 辱 於 斧 鉞, nghĩa là một chữ khen, thì vinh hơn cái áo hoa cổn của vua ban cho, một chữ chê thì nhục hơn là tội bị rìu búa.
Hơn thua trối mặc đời bao biếm,
Nửa kiếp dầu qua hết lấn chen.
(Đạo Sử).
Xuân Thu bao biếm rõ ràng,
Trung Dung luận thuyết bảo toàn thánh tâm.
(Thơ Huệ Phong).
包 公 賑 貧
Bao Công còn có tên là Bao Chửng, tên tự là Văn Chính, người đất Hiệp Phì, phủ Lư Châu, tỉnh Giang Nam Trung Quốc, con của ông viên ngoại Bao Hoài, và bà Châu Viện Quân.
Lúc nhỏ Bao Công là đứa trẻ thông minh tột bực, học đâu biết đó, nổi tiếng là thần đồng. Ông đậu Tiếng sĩ được vua Tống Nhân Tông bổ làm Tri Huyện Định Viễn, thuộc phủ Phụng Dương, sau vua triệu về kinh phong chức Lệnh Doãn Khai Phong phủ, rồi thăng lên chức Long Đồ Các Đại Học Sĩ.
Bao Công là người thanh liêm chính trực, giữ gìn luật pháp rất nghiêm minh, nên được vua ban cho Ngự Trát Tam đao là: Long đao, Hổ đao, Cẩu đao, để trị tội những hoàng thân quốc thích hay các đại thần, các nhà quyền quý phạm tội và sai Ông đi tra xét vụ tham những việc phát chẩn ở xứ Thần Châu.
Nguyên đất Thần Châu bị hạn ba năm, vua bèn sai An Lạc Hầu Bàng Dực là con Thái Sư Bàng Hồng, đến xứ ấy chẩn bần. Bàng Dực đến nơi không phát chẩn mà lại còn húng hiếp dân chúng và cưỡng bức gái lành, làm cho dân tình điên đảo.
Xứ Thần Châu đã bị hạn hán nhiều năm, dân tình điêu đứng, sứ thần của triều đình đến chẳng những không cứu giúp, trái lại còn tham nhũng, hạch sách, cưỡng bức gái lành, làm cho dân tình nơi đó càng thêm khốn đốn. Bao Công đến nơi thấy tội của Bàng Dực rõ ràng, bèn bắt hắn, lấy Long đao xử trảm. Rồi ông thay mặt cho nhà vua chẩn bần và an dân, nên dân chúng nơi đó cảm cái ơn đức của Bao Công vô hạn.
Bên ngoài hành lang Báo Ân Từ về phía nữ phái có bức tranh vé hình “Bao Công chẩn bần 包 公 賑 貧”.
1.- Bao Công:
Nhờ có Bao Công tài phá án,
Cẩu đầu đao chém hạng dân thường.
(Thơ Hoàn Nguyên).
2.- Bao Công chẩn bần:
Thần Châu hạn hán khổ dân,
Bao Công được phái chẩn bần cứu nguy.
(Thơ Thái Huệ).
包 拯
Bao Chửng, tên gọi là “Bao Công 包 公”, tự là Hy Nhơn, người ở đất Hiệp Phì đời nhà Tống. Ông là người có tiếng xét án giỏi, vụ án dầu bí mật và bao lâu, ông đều xử ra manh mối.
Bao Chửng là người rất ngay thẳng, giữ gìn luật pháp rất nghiêm minh, nên những kẻ quyền quý hay hoạn quan đều rất nể sợ.
Bao Chửng làm đến chức Khu Mật Phó Sứ, từng xử nhiều vụ án ly kỳ được chép ở sách “Bao Công Kỳ Án 包 公 奇 案”.
Xem: Bao Công.
Ví gặp Quách Hoè bày quỷ kế,
Há thua Bao Chửng trổ thiên tài.
(Thơ Chơn Tâm).
包 容
Bao: Trùm lên, che chở, bênh vực. Dung (dong): Tha thứ, không chấp.
Bao dung hay “Bao dong” là chỉ người có lòng rộng lượng với mọi người, hay tha thứ bảo bọc kẻ khác.
Như: Đức Chí Tôn là một người cha có lòng rộng lượng bao dung.
Tập tánh con quảng đại bao dung,
Hay thương mến thuận cùng bạn tác.
(Phương Tu Đại Đạo).
Bao: Ít hay nhiều, lâu hay chóng. Đành: Bất đắc dĩ mà phải chịu vậy.
Bao đành có nghĩa là sao đành, đành lòng nào, nỡ lòng nào.
Như: Thấy đứa con hư lòng cha bao đành từ bỏ.
Người phụ nhơn trí hoá hẹp hòi,
Mình quân tử bao đành ngồi ngó dại.
(Phương Tu Đại Đạo).
Bao đành sớm tách miền Tiên cảnh,
Nỡ để nhơn sanh chốn Nghiệt đài.
(Thơ Thượng Trí Thanh).
Bao đồng là dông dài, linh tinh, lung tung, không đi vào trọng tâm cái cần nói, hoặc việc cần làm.
Thí dụ: Thôi đi làm đi ở đó mà nói chuyện bao đồng.
Bao đồng còn nghĩa khác là có tính chất khái quát, chung nhất.
Hay lo những chuyện gọi bao đồng,
Một tánh mạng mình tính chẳng xong.
(Đạo Sử).
Bao: Từ dùng để chỉ một mức độ, số lượng, hoặc khoảng thời gian nào đó không rõ. Giờ: Chỉ thời gian.
Bao giờ là khi nào. Bao giờ là tiếng dùng để hỏi một khoảng thời gian nào đó không rõ.
Thánh giáo Đức Chơn Cực Lão Sư có câu: Ðấng Chí Tôn, vì thương dân tình nơi đây, đã khổ tâm gieo Ðạo, đem chiếc thuyền cận bến để dìu dắt vào chỗ bình địa đặng tự tại thung dung, mà vì chưa hiểu thấu căn nguyên, khổ bao giờ trông thoát?
Trái oan nào khác mối tơ,
Rối rồi không gỡ, bao giờ cho ra.
(Kinh Sám Hối).
包 含
Bao: Trùm ra ngoài. Hàm: Chứa đựng.
Bao hàm là bao trùm, tức chứa đựng bên trong, mang bên trong (nói về cái nội dung trừu tượng).
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Hai chữ “Tu thân” không phải chỉ có một ý nghĩa tiêu cực là sửa trị nết xấu mà là bao hàm một chương trình rộng rãi trau dồi tài đức.
Thập Thiên can bao hàm vạn tượng,
Tùng Địa Chi hoá trưởng Càn Khôn.
(Phật Mẫu Chơn Kinh).
Công là hay học chuyện bá xàm,
Trăm bánh trái, bao hàm nhà cửa.
(Phương Tu Đại Đạo).
包 黑 子
Bao Hắc Tử là tục danh của Bao Công, một ông quan cương trực, thanh liêm, nổi tiếng xử nhiều vụ án ly kỳ được chép ở sách “Bao Công Kỳ Án 包 公 奇 案”.
Ông chẳng những xử các vụ án do người thế gian đầu cáo, mà còn được các vong hồn ở Diêm Cung nhờ tra xét. Điển hình là vụ án của Y Thị.
Y Thị tên thật là Trịnh Nương, vợ của quan Ngự sử Trần Quốc Thanh. Y Thị là người thẳng thắng, cương trực, hay ghét kẻ gian thần, thường khuyên can chồng đừng nên theo phe bọn gian thần là Thái Sư Bàng Hồng để mưu hại hai tướng trung thần là Dương Tôn Bảo và Địch Thanh.
Một hôm, vì khuyên mãi không được, Y Thị nặng lời khiến chồng tát tai, quá uất ức nàng thắt họng tự tử. Trần Quốc Thanh chẳng thương tiếc, lại sai gia nhân khiêng xác Y Thị vùi vào chỗ bùn lầy, rồi chọn một đứa a hoàn có nhan sắc lên thế nàng để làm phu nhân. Hồn Y Thị xuống Diêm đình đầu cáo, Diêm Vương dạy Y Thị về kiện nơi Khai Phong phủ của Bao Công.
Bao Công đi chẩn bần nơi xứ Thần Châu trở về, dọc đường hồn Y Thị hoá luồng khí lạnh chận lại, rồi đến đêm báo mộng cho Bao Công biết.
Hồn Y Thị quỳ trước Bao Công cáo rằng: Thiếp thác là tại thiếp, nhưng chồng thiếp không nghĩ đến tình nghĩa, không nghĩ đến phẩm mạng phụ phu nhân của triều đình, đem vùi thây thiếp nơi bùn lầy nước đọng, còn đem một con tỷ tất lên thay thiếp. Chồng thiếp theo bọn gian thần là Thái Sư Bàng Hồng mưu hại hai tướng trung can là Dương Tôn Bảo và Địch Thanh, nếu Lão gia không về triều ngay thì hai vị tôi thần lương đống sẽ không còn. Nghe xong, Bao Công ra lịnh về triều ngay trong đêm đó. Sáng hôm sau, Bao Công tâu hết mọi việc cho vua nghe, rồi mượn ba món bửu bối đem đến nơi vùi thây Y Thị để cứu sống nàng.
Y Thị sống lại, Bao Công lập hình án xử trảm Trần Quốc Thanh và trưng nhiều bằng cứ để minh oan cho hai tướng Dương Tôn Bảo và Địch Thanh.
Bao Hắc Tử tiếp hồn Y Thị,
Cáo đứa gian hại vị trung thần.
Trừ gian cứu nước hại dân,
Đáng danh hiền triết phu nhân liệt vào.
(Báo Ân Từ).
包 羅
Bao: Trùm ra ngoài. La: Cái lưới.
Bao la là rộng lớn đến mức như vô cùng tận.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Cây “giác ngộ” chỉ mọc giữa đám đất đau khổ (vì bị dục vọng lôi cuốn) lấy chúng sanh làm gốc, lấy lòng thương bao la làm nước tưới mới có hoa giữa trí tuệ.
Nước non chớn chở bao la,
Quyết tìm một gậy mệt già viếng con.
(Diêu Trì Kim Mẫu).
Bao: Nói tắt của “Bao nhiêu”, chỉ một số lượng nào đó, nhưng không xác định.
Bao lăm là bao nhiêu, từ dùng để chỉ một lượng rất ít, không đáng kể.
Bao lăm còn có nghĩa chẳng đáng bao nhiêu, chẳng được bao nhiêu.
Ngọc lành đáng giá biết bao lăm,
Ðể mẻ thì ai chẳng tiếc thầm.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Làm lụng té bao lăm của cải,
Để cho con là ngãi cùng con.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Bao: Ít hay nhiều, lâu hay chóng. Lâu: Phải nhiều thời giờ, trái với mau (chóng).
Bao lâu là bao nhiêu lâu, tức bao nhiêu thời gian.
Thánh giáo Thầy có câu: Ðạo Trời soi gương rạng, khá biết tỉnh mộng hồn, kiếp sanh chẳng bao lâu, đừng đợi đến ngày cùng tận.
Trần khổ dầu ai chơn muốn lánh,
Ngày thành Chánh quả có bao lâu?
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Có thuở mạng Trời đưa sắc đến,
Nên giềng Ðạo cả chẳng bao lâu.
(Đạo Sử).
Hay “Bao Lơn Đài”.
Bao lơn: Phần nhô ra ngoài hiên, hoặc ngoài sàn gác, xung quanh có lan can. Đài: Cái đài.
Bao Lơn Đài là một cái đài xây theo hình bán nguyệt, có lan can, đưa ra mặt tiền của Toà Thánh Tây Ninh.
Trước thành bao lơn có đắp các tượng hình: Sĩ, Nông, Công, Thương, Ngư, Tiều, Canh, Mục, tượng trưng sự sinh hoạt con người với ý nghĩa nơi Toà Thánh là nơi tập trung các chơn linh trên cõi thế, dù sinh tiền làm nghề gì cũng vậy, phút cuối cùng phải về đây xem tội phước.
1.- Bao lơn:
Khi bước vào trước sân Toà Thánh,
Hãy trông lên trên cánh bao lơn.
(Lược Thuật Toà Thánh).
2.- Bao Lơn Đài:
Du khách thấy xây hình bán nguyệt, gọi là Bao Lơn Đài.
(Toà Thánh Tây Ninh).
Bao nả là tiếng thường dùng trong câu hỏi, có nghĩa là bao nhiêu, chừng nào.
Thánh giáo Đức Cao Thượng Phẩm trong Thánh Ngôn Sưu Tập có đoạn: Nên nhớ rằng, chơn lý vẫn là nguồn khai thác cho U Minh Giới mà cửa Hiệp Thiên Đài vốn phải lắm công lao. Vì cớ cả mấy em dầu cho Phước Thiện cũng là Hội Thánh cứu khổ của Hiệp Thiên Đài, thì thử hỏi trọng trách bao nả.
Ví bằng ai hỏi sao bao nả?
Rằng trẻ noi sau biến hoá già.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Lời phiền đổi lại tiếng than,
Thương kia bao nả lại càng thêm thương.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Nghĩ cõi Bồng Lai xưa mấy mặt,
Còn tôi bao nả dám làm hơi?
(Thiên Thai Kiến Diện).
Bao: Tiếng dùng để chỉ mức độ, số lượng hoặc khoảng thời gian nào đó không rõ.
Bao nhiêu là không biết nhiều hay ít, tức số lượng nào đó không rõ chính xác.
Bao nhiêu còn có nghĩa là không biết chừng nào.
Thánh giáo Đức Chí Tôn trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có đoạn: Vậy muốn đắc quả thì chỉ có một điều phổ độ chúng sanh mà thôi. Như không làm đặng thế nầy thì tìm cách khác mà làm âm chất, thì cái công tu luyện chẳng bao nhiêu cũng có thể đạt địa vị tối cao.
Dưới Ngọc Hư, kể bao nhiêu,
Thiêng Liêng các Đấng lập triều trị dân.
(Kinh Thế Đạo).
Mang câu thất hiếu đã đành,
Bao nhiêu công quả biển gành rã tan.
(Thất Nương Giáng Bút).
Xuân mệt mờ bao nhiêu cảnh ủ,
Cụm rừng tòng lá xủ tranh sầu.
(Thanh Tâm Tài Nữ).
Bao nhiêu công quả: Lập công quả được bao nhiêu. Bấy nhiêu phần: Được hưởng tương ứng với phần công quả đã làm.
Bao nhiêu công quả bấy nhiêu phần ý muốn nói máy Trời rất chí công, nếu mình làm công quả ở cõi thế gian được bao nhiều thì ngày sau về cõi Thiêng liêng mình sẽ được hưởng bấy nhiêu, tức là tương ứng với số công quả do mình tạo nơi thế gian.
Muôn đức ngàn lành không sót một,
Bao nhiêu công quả bấy nhiêu phần.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Bao: Từ kết hợp để chỉ mức độ, số lượng hoặc khoảng thời gian nào đó. Phen: Lần, lượt.
Bao phen là bao lần, bao lượt.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Thầy có dạy: Ôi! Thầy cực nhọc bao phen, mà nay con đường ngó lại còn dài thăm thẳm. Thầy chỉ mong mỗi con tỉnh hồn thức trí, ngó lại bước đường sái trước kia mà lập tâm làm việc chánh đáng, theo lần Thầy, thì sự may mắn ấy không còn chi cho Thầy vui hơn nữa.
Trượng tài khinh nghĩa đã bao phen,
Làm mất số sang chịu khó hèn.
(Đạo Sử).
Nào là lúc ăn cay uống đắng,
Nào là khen rồi mắng bao phen.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Bao: Bọc ở bên ngoài. Phủ: Che đậy lại.
Bao phủ là bao bọc và phủ kín ở bên ngoài.
Trong Thuyết Đạo của Đức Hộ Pháp có câu: Ấy vậy, ta có một tinh thần, một phương pháp duy nhất của Đức Chí Tôn đã để trong mình ta, nó là bộ Thiết giáp đang bao phủ lấy ta, ta mang bộ Thiết giáp ấy vô, mấy em cố gắng mỗi em đều sắm bộ Thiết giáp ấy tức nhiên là đạo đức của mấy em đó vậy.
Kìa lố bóng hồng ân bao phủ,
Cả thế gian đầy đủ đạo mầu.
(Kinh Thế Đạo).
Xin có tưởng ruột rà máu mủ,
Cõi Hư linh bao phủ ân hồng.
(Kinh Thế Đạo).
Cao sang chẳng mượn của thường tình,
Bao phủ mình con chút khí linh.
(Đạo Sử).
Bao: Lâu mau, xa gần. Quản: Ngại.
Bao quản là một từ Nôm, có nghĩa là không quản ngại, hay không nề hà.
Như: Làm việc thiện bao quản gian lao khổ nhọc.
Lòng lành là vốn có căn xưa,
Bao quản lợi danh chẳng dám chừa.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Biển bắc mặc dầu cơn sóng bủa,
Non nam bao quản đám mây vần.
(Thơ Hộ Pháp).
Thanh bạch quyết gìn ra sức lái,
Sắt son bao quản nhọc công dò.
(Thơ Thượng Sanh).
包 括
Bao: Bọc ở ngoài, cho chứa đựng các vật. Quát: Thu tóm lại.
Bao quát là bao gồm rộng rãi, toàn bộ.
Như: Làm những công việc bao quát của công ty chớ không cụ thể.
Thuyết Đạo Hộ Pháp có đoạn: Tiếng tu nó bao quát như thế, thiên kinh vạn điển tiếng của các Tôn Giáo đã để lại duy chỉ trong một chữ đấy mà thôi; thành thử chẳng phải đứng trên giảng đài mà giảng chữ tu ấy cho cùng lý được, nhứt là Bần Đạo có thể lấy cái tinh túy của nó để ra, dầu không trọn vẹn, nhưng cả thể toàn thể con cái của Đức Chí Tôn để ý, định trí cho lắm nghe và hiểu.
Ðạo dưỡng dục vận hành bao quát,
Ðạo độ người hay sát hay sanh,
(Đại Thừa Chơn Giáo).
褒 姒
Bao Tỷ, con gọi là Bao Tự là một nàng con gái đẹp đước tiến vào cung cho Châu U Vương.
Theo Sử ký Tư Mã Thiên, Chu bản kỉ có chép:
Thời nhà Hạ suy vi, có hai con rồng thần vào sân đình của vua tự xưng là vua nước Bao. Triều đình bèn tế lễ, rồng thần nhả lại dãi và được lưu vào hộp gỗ.
Từ đời nhà Hạ qua đời nhà Thương không ai dám mở hộp dãi rồng. Đến thời Chu Lệ Vương mở hộp ra xem, nước dãi biến thành con thằn lằn đen chạy vào hậu cung, làm một cung nữ mang thai. Sau đó người cung nữ sinh ra một bé gái, sợ là vật tai dị nên vứt đứa trẻ đi.
Thời Chu Tuyên Vương, có một đôi vợ chồng không hay có lệnh cấm bán gỗ dâu và gỗ cơ, mang ra chợ bán liền bị triều đình truy bắt. Họ chạy trốn giữa đường thì gặp đứa trẻ bị bỏ rơi, bèn mang theo chạy đến nước Bao.
Cô bé lớn lên chính là Bao Tỷ 褒 姒, hay Bao Tự là một người con gái đẹp đời Chiến Quốc, do Bao Hồng Đức xuất vải lụa mua để tiến vào cung cho Châu U Vương đặng xin tội cho cha là Bao Quýnh.
Bao Tỷ vào cung được vua U Vương sủng ái, phế Thân Hoàng hậu và Thái Tử Nghi Cửu để lập Bao Tỷ làm Chánh cung Hoàng hậu và con là Bá Phục làm Thái Tử.
Bao Tỷ có gương mặt rất đẹp, nhưng luôn luôn buồn ủ dột, không khi nào có một nụ cười. Biết nàng thích nghe tiếng lụa xé, U Vương truyền xuất cả trăm cây lụa trong kho để xé cho Bao Tỷ nghe. Nghe qua mặt nàng chỉ tươi một chút mà không cười.
Tại Ly Sơn thời ấy có đắp một cái đài gọi là Phong Hoả Đài, khi nào Kinh thành có loạn thì đốt lửa trên ấy để báo cho các chư hầu biết mà đem binh về cứu viện. Để làm vừa lòng U Vương, Quách Thạch Phủ bèn dâng kế cho đốt lửa Phong Hoả Đài, đánh lừa chư hầu mà làm trò cười cho Bao Tự.
Vua U Vương nghe theo, truyền đốt Phong Hoả Đài, lửa bốc lên cao, chư hầu vội vàng kéo quân đến nườm nượp. Khi tới nơi thấy không có giặc giả, chỉ có U Vương và Chánh hậu bày tiệc uống rượu, chư hầu xẻn lẻn cuốn cờ xếp giáo, kéo nhau ai về xứ nấy. Chừng đó Bao Tỷ thích chí đứng dựa lan can mà cười ngất.
Sau đó, Thân hầu kéo binh đánh kinh đô, U Vương truyền đốt Phong Hoả Đài, nhưng chư hầu sợ bị lừa lần nữa, nên không ai đem binh tiếp cứu. Kết quả, Châu U Vương và Bao Tỷ đều bị giết chết.
Trà my kém sắc hơn hường,
Tiếng cười Bao Tỷ hơn hờn Phan Vương.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Bao: Bọc lại. Tóc: Lông mọc ở phần trên và sau của đầu người.
Bao tóc, bởi chữ “Đối phu phong phát 對 夫 封 髮”, tức là bao tóc đợi chồng.
Đường Thư chép: Ông Giả Trực Ngôn là một vị quan, vì có công việc mà phạm tội bị đày đi Lĩnh Nam, bèn từ biệt cùng vợ là bà Đổng Thị rằng: Sự sống chết không thể hẹn kỳ, nay tôi bị tội đày 20 năm, ra đi không biết sống chết thế nào, nàng ở lại nên tái giá để nương tựa tấm thân! Vợ khóc mà không đáp lại, chỉ lấy dây buộc tóc, bao ngoài bằng vải lụa, nhờ Trực Ngôn viết lên rằng: Phi quân thủ bất giải 非 君 手 不 解, có nghĩa là chẳng phải tay chàng, không mở.
Sau đó, Trực Ngôn bị đi đày, Hai mươi năm sau mới được trở về, chữ và lụa trên đầu vợ còn rành rạnh, đến khi đem nước nóng gội tóc, tóc rụng tất cả. Thật là “trinh tiết” đáng khen!
Người đời sau khen rằng: Đổng Thị đối phu phong phát, trinh tiết kham khoa 董 氏 對 夫 封 髮, 貞 節 堪 誇, nghĩa là bà Đổng Thị đối chồng bao tóc, trinh tiết thật đáng khen.
Dưới trăng bóng ngọc còn nguyên,
Ôm bình, bao tóc sang hèn cũng cam.
(Kinh Thế Đạo).
Thiếp cam bao tóc thờ chàng,
Rót chung ly biệt đôi hàng lụy sa!
(Kinh Thế Đạo).
Bao: Từ kết hợp để chỉ mức độ, số lượng hoặc khoảng thời gian nào đó. Thuở: Khoảng thời gian không xác định của thời quá khứ hay tương lai xa.
Bao thuở là chừng lúc nào, thời nào. Như: Vật quý báu mà mất đi, bao thuở tìm lại được.
Bao thuở đầu non chim vắng dạng,
Thị thiềng càng thấy bắt buồn tanh.
(Đạo Sử).
Bao thuở nằm nhà cơm tới miệng,
Của công thường thế phải cân đồng.
(Đạo Sử).
Rường cột Ðạo mầu bao thuở dựng,
Sụt sùi để bước khó làm thinh.
(Thơ Thượng Sanh).
Bao: Bọc ở bên ngoài. Trùm: Bao phủ lên trên.
Bao trùm là bao bọc và trùm lên khắp cả một khoảng không gian nhất định nào đó.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Lễ và Nhạc cùng họp nhau và nếu giữ đúng nề nếp thì đàn cúng mới nghiêm chỉnh, được bao trùm một bầu không khí huyền diệu, Thiêng liêng khiến cho chúng ta cảm tưởng là có Ðức Chí Tôn và Chư Tiên Phật giáng ngự để ban ơn cho toàn Ðạo.
Lược sách binh thư dâng bửu bối,
Bao trùm hậu khí giúp nhà Nam.
(Liễu Nhứt Chơn Nhơn).
Than ôi! Ðất Tây Ninh giăng phủ mây sầu,
Vùng Thánh Ðịa bao trùm gió thảm.
(Thượng Sáng Thanh).
1.- Báo là mách bảo. đưa tin, đưa giấy, hoặc hiển nhiên cho biết trước. Như: Báo tin, báo tử, báo quan, nhạn báo tin xuân.
Thánh giáo Thầy có câu: Thầy đã sai Allan Kardec, Flammarion, cũng như Élie và Thánh Jean Baptiste, là những bực tiền Thánh báo tin ngày giáng sinh chấn động của Chúa Cứu Thế Jésus Christ, nhưng chúng nó, đứa thì bị hành hạ, đứa khác bị giết chết.
Thanh thoát rừng thung tiếng gió ngàn,
Muôn hồng ngàn tía báo Xuân sang.
(Thơ Thượng Sanh).
2.- Báo là làm nhiễu, làm phiền, làm hại. Như: Báo vợ con, báo hại người, báo đời.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Hễ Ðạo có hành tàng thì lấy từ bi làm căn bản, còn hung tàn thì đi theo cái hung, tức báo đời chớ không phải cứu đời.
Toan kiếm con, kiếm cũng không ra,
Báo vợ lớn, mẹ già, sầu thảm.
(Phương Tu Đại Đạo).
3.- Báo 報 là trả, đền lại. Như: Báo ân, báo oán, báo ứng, báo hiếu, nghiệp báo.
Thánh giáo Đức Chí Tôn trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có dạy: Nếu ai giết mạng sống, đều chịu quả báo không sai, biết đâu là cái kiếp sanh ấy chẳng phải là Tiên, Phật bị đoạ luân hồi mà ra đến đỗi ấy.
Làm cho chồng vợ lìa xa,
Cả đời nghiệt báo oan gia chẳng rời.
(Kinh Sám Hối).
報 恩 祠
Báo ân: Đền ơn, báo đáp ân đức. Từ: Đền thờ, nhà để thờ phượng.
Báo Ân Từ là một cái Đền dùng để phụng thờ các bậc vĩ nhân có công với nhân loại, hoặc các bậc tiền bối có đại công với Đạo.
Sau đây là lịch sử kiến tạo Báo Ân Từ tại Nội Ô Toà Thánh Tây Ninh.
Nguyên vào năm 1928, tại làng Phú Mỹ, tỉnh Mỹ Tho, Đức Diêu Trì Kim Mẫu có giáng cơ ban cho một bài thi và dạy phải lập Đền thờ Phật Mẫu và cất một ngôi Thảo Đường trong vuông đất đó.
Bài thi Thảo Đường như sau:
Thảo Đường phước địa ngộ tùng hoa,
Lục ức dư niên vũ trụ hoà.
Cộng hưởng phàm gian an lạc nghiệp,
Thế đăng Bồng đảo định âu ca.
Nghĩa là:
Ngôi Thảo Đường cất nơi phước địa, gặp mối Đạo trời mới mở ra.
Hơn sáu trăm ngàn năm, vũ trụ được yên ổn và hoà bình.
Nơi phàm gian nhơn loại cùng nhau hưởng cảnh an cư lạc nghiệp.
Cõi thế như cõi Tiên, con người đều được sống thanh bình thịnh vượng.
Sau đó, Đức Lý Giáo Tông giáng cơ ban cho đôi liễn tại Thảo Đường:
草 上 霜 飛 便 是 天 波 之 勝 景
Thảo thượng sương phi tiện thị thiên ba chi thắng cảnh.
堂 前 月 照 甚 光 地 泰 是 登 仙
Đường tiền nguyệt chiếu thậm quang địa thới thị đăng tiên.
Nghĩa là:
Trên cỏ sương bay tựa như sóng trời, ấy là cảnh đẹp.
Trước nhà trăng chiếu sáng trên đất thới, nơi lên Tiên cảnh.
Vào thời ấy, ông Đinh Công Trứ là chủ trưởng Minh Thiện Đàn tại làng Phú Mỹ do Đức Lý Giáo Tông thành lập năm 1928. Đến năm 1929, Đức Lý Giáo Tông dạy bàn giao Minh Thiện Đàn cho Đức Hộ Pháp cai quản.
Theo lời dạy của Đức Phật Mẫu, tại làng Phú Mỹ phải lập một Thánh Thất, gọi là Thánh Thất Khổ Hiền Trang, một Sở Thảo Đường trong đó cất một Đền Thờ Phật Mẫu. Do đó, Đức Hộ Pháp bèn giao cho ông Đinh Công Trứ lập Bàn thờ Phật Mẫu nơi sở Thảo Đường.
Do chiến tranh. giặc giã khắp nơi, trong khoảng thời gian 1943 đến năm 1945, ông Trứ cùng các bạn Đạo trong Minh Thiện Đàn, phải rời khỏi làng Phú Mỹ tản cư về Tây Ninh lập ra Trường Quy Thiện, Trí Giác Cung, rồi xây dựng Đền Thờ Phật Mẫu trong đó. Đây là nơi thờ Đức Phật Mẫu đầu tiên hết.
Như chúng ta biết, từ khi mới khai Đạo 1926 cho đến năm 1946, Nội Toà Thánh chưa có Đền Thờ Phật Mẫu, Đức Hộ Pháp mới mượn ngôi Báo Ân Từ để tạm thờ Đức Phật Mẫu.
Nguyên ngôi Báo Ân Từ trước đây là một Đền thờ do Đức Hộ Pháp cho xây dựng tại Nội Ô Toà Thánh để thờ các bậc Tiền bối có đại công với Đạo và các bậc vĩ nhân có công với đất nước hay nhân loại.
Đền thờ nầy Đức Hộ Pháp nhờ công quả Phạm Môn dở ba căn nhà sở là Sở Dưỡng Lão, Sở Nữ Công Nghệ và Sở Trường Hoà làm bằng cây ván, đem cất thành một ngôi thờ cạnh Hộ Pháp Đường, dùng làm Báo Ân Từ.
Phía trước ngôi thờ có dựng một cái cổng lớn, hai bên có đôi liễn khoán thủ hai chữ “Báo Ân”, giải thích ý nghĩa của Báo Ân Từ:
報 得 聖 名 香 火 千 秋 奉 祀
Báo đắc thánh danh hương hoả thiên thu phụng tự.
恩 遺 世 代 威 靈 萬 古 留 存
Ân di thế đại uy linh vạn cổ lưu tồn.
Nghĩa là:
Báo đáp các bậc Thánh, lửa hương ngàn năm thờ phụng.
Ân sâu lưu lại đời đời, oai linh muôn thuở tồn tại.
Vào năm 1933, Hội Thánh khởi công xây dựng ngôi Đền Thánh bằng vật liệu nặng với bê tông cốt sắt, nên ngôi thờ cũ bằng cây ván được dở bỏ và quả Càn Khôn dời về tạm thờ tại Báo Ân Từ.
Đến năm 1946, Đức Hộ Pháp từ Hải đảo Madagascar trở về, Ngài mới tổ chức cuộc lễ long trọng, có sự tham dự của Chức sắc lưỡng đài cùng toàn thể chức sắc và tín đố để rước Linh vị Phật Mẫu từ Trí Giác Cung về Toà Thánh.
Lộ trình đưa Linh vị Đức Phật Mẫu từ Trí Giác Cung Địa Linh Động theo đường Bàu Sen qua Sân Cu rồi vô Toà Thánh.
Linh vị của Đức Phật Mẫu rước về được thờ tạm tại “Khách Thiện Từ”, một ngôi nhà do Hộ Pháp cho làm bằng cây ván lợp tranh nằm trên khoảng đất trống sau cơ quan Hiệp Thiên Đài hiện nay.
Đến năm 1947, sau khi Hội Thánh xây dựng xong ngôi Đền Thánh và dời Quả Càn Khôn tại Báo Ân Từ về Đền Thánh thờ tại Bát Quái Đài, thì Linh vị của Đức Phật Mẫu một lần nữa được làm lễ long trọng, có Hội Thánh lưỡng đài và chức sắc tín đồ tham dự đông đảo để rước từ “Khách Thiện Từ” về Báo Ân Từ thờ cho đến ngày nay.
Vì thế, Đền Thờ Phật Mẫu tại Nội Ô Toà Thánh, được Đức Hộ Pháp dùng ngôi Báo Ân Từ tạm thờ Đức Phật Mẫu, nên Đền Thờ nầy còn gọi là “Báo Ân Từ”.
Dầu Thánh Thất không gần cũng tới,
Báo Ân Từ diệu vợi đừng lơi.
(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).
Báo Ân Từ đắp hình Kim Mẫu,
Toà Thánh nghi thờ nhãn Chí Tôn.
(Thơ Huệ Phong).
報 補
Báo: Đáp trả lại. Bổ: Làm việc có ích cho người.
Báo bổ là báo đáp ơn nghĩa bằng cách giúp ích cho người, tức là đền bù những lúc người ta vì mình mà chịu cực nhọc.
Trong Bài Văn tế Đức Cao Thương Phẩm của Chức Sắc Hiệp Thiên Đài có câu: Ngảnh lại, bóng tang du cha khuất, mẹ còn già ngồi lên khóc trẻ, nghĩ cũng lạ thường, thất chữ hiếu phải cam là vậy đó. Nhưng... nhưng cũng nghĩ rằng tình chồng vợ cũng đủ dạ yêu thương, nghĩa mẹ con cũng đã dày công báo bổ...
Nguyện lấy sức đền ơn cương thổ,
Dốc lòng lo báo bổ ơn nhà.
(Kinh Cúng Chiến Sĩ).
Ơn nước mong tìm phương báo bổ,
Đạo nhà nay gặp cảnh khang an.
(Thơ Thuần Đức).
報 答
Báo: Đáp trả lại. Đáp: Đền lại.
Báo đáp là đền đáp ơn nghĩa.
Nói về Giới Tử Thôi, Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có đoạn: Một người trung thần là Giới Tử Thôi cắt thịt vế trái mình, nấu một tô đem dưng cho Trùng Nhĩ. Trùng Nhĩ thấy thịt nóng, ăn ngon lắm, mới hỏi: Chỗ nầy làm sao có thịt?, Tử Thôi thưa rằng: “Tôi thường nghe con thảo hết mình thờ cha, tôi ngay liều mình thờ chúa, nay Chúa công đói lòng nên hạ thần cắt thịt trái vế mà dưng cho Chúa công đỡ dạ. Trùng Nhĩ rơi nước mắt mà than rằng: “Kẻ nạn nhân này làm hại cho ngươi biết bao, ta lấy chi báo đáp ơn người cho xứng”.
Thương lùm mả ủ thân ma,
Cốt căn báo đáp sơn hà gầy nên.
(Thất Nương Giáng Bút).
報 孝
Báo: Trả lại, đền đáp. Hiếu: Thảo, có lòng kính yêu, và biết ơn cha mẹ.
Báo hiếu là đền đáp công ơn của cha mẹ.
Báo hiếu còn có nghĩa là lo việc tang lễ chu đáo khi cha mẹ đã qua đời.
Muốn hiển tổ vinh tông báo hiếu,
Học cho hay trọng yếu miếu đường.
(Nữ Trung Tùng Phận).
報 國
Báo: Trả lại. Quốc: Nước.
Báo quốc là trả nợ nước.
Con người được sinh ra và lớn lên, trước nhứt là thọ ơn của đất nước, vì vậy khi đất nước cần, làm người dân ai cũng phải lo trả nợ cho đất nước.
Như: Tận trung báo quốc.
An dân buồn thiếu trang hiền sĩ,
Báo quốc vui nhờ Đức Thánh Nhân.
(Thanh Sơn Đạo Sĩ).
報 國 祠
Báo Quốc: Báo đáp công đức của đất nước và dân tộc. Từ: Đền thờ.
Báo Quốc Từ 報 國 祠 là Đền thờ những vị có công lớn với Quốc gia và dân tộc Việt Nam.
Báo Quốc Từ được Đức Hộ Pháp cho xây dựng vào ngày 01 tháng 01 năm 1955 cách cửa Bắc Chợ Long Hoa hơn hai trăm thước, nằm giữa Đại lộ từ Toà Thánh đến chợ Long Hoa. Nếu du khách viếng Toà Thánh muốn đến Chợ Long Hoa thì phải đi ngang Báo Quốc Từ, một ngôi Đền uy nghiêm và lộng lẫy nằm trên trục giao thông được gọi là “Lộ Báo Quốc Từ”.
Ngôi Báo Quốc Từ nầy được xây dựng theo hình lục giác đều, hai mặt trước sau có cổng, quay dọc theo chiều lộ, trước mỗi cổng đều có đắp nổi bằng chữ Nho vào hai trụ cổng đôi liễn như sau:
保 守 基 圖 英 雄 揚 氣 魄
Bảo thủ cơ đồ anh hùng dương khí phách.
護 持 國 運 志 士 顯 威 靈
Hộ trì Quốc vận chí sĩ hiển uy linh.
Dịch nghĩa:
Bảo thủ cơ đồ, người anh hùng nêu cao khí phách.
Hộ trì vận nước, người chí sĩ hiển lộ oai linh.
Đôi liễn trên do Ngài Hiến Pháp Trương Hữu Đức thuộc chức sắc Hiệp Thiên Đài chi Pháp đặt ra.
Bên trong Báo Quốc Từ, nơi chánh điện có một bài vị viết bằng chữ Nho ở giữa hàng chữ lớn: “Hùng Vương Quân Chi Thuỷ 雄 王 君 之 始” để thờ Quốc Tổ Hùng Vương.
Hàng bên phải “Cứu Quốc Công Thần 救 國 功 臣”, để tôn vinh những bậc có công với Đất nước.
Và hàng bên trái là “Chiến Sĩ Trận Vong 戰 士 陣 亡” để thờ các chiến sĩ tử trận vì quốc gia dân tộc.
Ngoài ra, nơi Bàn thờ còn có các linh vị sơn son thếp vàng đề tên của các vị vua nhà Nguyễn có tinh thần yêu nước, chống Pháp đô hộ như: Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân và nhà cách mạng Cường Để. Hai bên Chánh điện có trang trí lỗ bộ và lọng tàn. Phía sau bàn thờ có đề tám chữ Nho: “救 國 功 臣 戰 士 陣 亡 Cứu Quốc Công Thần Chiến Sĩ Trận Vong”.
Hằng năm cứ đến ngày 10 tháng 3 Âm lịch, ngày Lễ Giỗ Tổ Hùng Vương, Hội Thánh Cao Đài Toà Thánh Tây Ninh cùng toàn Đạo có thiết tại Báo Quốc Từ “Lễ Kỷ Niệm Quốc Tổ Hùng Vương”.
Trong buổi Lễ Khánh Thành Báo Quốc Từ ngày 16 tháng 8 năm Ất Mùi (Dl. 01/10/1955), Đức Hộ Pháp có nói: “Nơi Đền Thờ nầy, các Ngài đã thấy Linh Vị của mấy vị Cựu Hoàng và Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, xin các Ngài đừng lầm tưởng rằng: Đạo đã xu hướng theo thuyết "Bảo Hoàng" mà kỳ thật các Đấng ấy, chỉ liệt vào hàng trung quân ái quốc của xã hội Việt Nam mà thôi.
Vì công nghiệp của họ tranh đấu giải ách lệ thuộc cũng đồng cùng các chiến sĩ cách mạng khác kia vậy.
Tưởng niệm tới Lễ ấy, nên Hội Thánh mới quyết định lập Báo Quốc Từ thờ trọn cả các Vong Linh của các Anh Hùng Chiến Sĩ, Cứu Quốc Công Thần cùng là Trận Vong Chiến Sĩ”...
“Hôm nay các anh linh chư vị anh hùng tiền bối và hậu bối đang ngự trị trong khối Quốc hồn của ta và đang vơ vẫn bên ta.
Giờ phút Thiêng Liêng nầy. Bần Đạo xin cả các Ngài hiệp tâm làm một cùng Bần Đạo thành một khối tưởng niệm duy nhứt đặng cầu xin các Đấng ấy giúp cho nòi giống ta khỏi cơn ly loạn, cốt nhục tương tàn đặng đem hạnh phúc hoà bình lại cho nước nhà và cho toàn thiên hạ”.
Huấn từ của Đức Thượng Sanh trong Lễ Khánh Thành “Vuông Rào Báo Quốc Từ” có nói: Trên vùng Thánh Ðịa nầy, hôm nay Ðời và Ðạo đã gặp nhau và thông cảm nhau trong dịp tỏ lòng tôn kính và sùng bái những nhơn vật trong hàng vương giả, đã lấy chủ nghĩa quốc gia dân tộc làm chuẩn đích, đem thân thế điểm tô cho non sông Việt chủng được vững bền trên cõi Á Ðông, lắm khi phải trọn đời hy sinh vì giống nòi Hồng Lạc.
Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ là một nền Quốc Ðạo được sáng trên đất Nam Phần Việt Nam, nơi mà tinh ba của đất nước đã nung đúc biết bao bậc anh phong chí sĩ, lẽ tất nhiên là Ðại Ðạo có phận sự bảo tồn quốc túy, giữ cho còn mãi những cái hay, cái đẹp riêng biệt của nước nhà hầu lưu truyền cho đời sau roi dấu.
Trong những cái hay, cái đẹp đó đáng treo gương nhất là tinh thần vị quốc xả thân dầu đến thác cũng không đổi dời tiết tháo. Vì muốn tôn thờ cái tinh thần vị quốc ái dân đó, Ðức Hộ Pháp mới có sáng kiến xây dựng ngôi Báo Quốc Từ để làm nơi hương hoả phụng tự cho các Ðấng Tiên Vương và các nhà tôn thất có dày công với Tổ Quốc Việt Nam. Cái sáng kiến của Ðức Hộ Pháp do nơi lòng ái quốc chơn chính của Ðức Ngài, đã làm cho toàn Ðạo vui lòng và mãn nguyện.
Ngày nay Hội Thánh tiếp tục gìn giữ dấu tích của Ðức Ngài và tô điểm cho nó còn vẻ uy nghiêm mãi mãi. Tuy nói rằng ngôi Báo Quốc Từ để tôn thờ những bậc vương giả hữu công với đất nước, nhưng nước Việt Nam đã thoát vòng lệ thuộc và chính thể hiện tại là chính thể Cộng Hoà thì từ đây ngôi miếu nầy sẽ dành chung để chiêm bái những vị lãnh đạo Quốc gia như Quốc Trưởng, Thủ Tướng chẳng hạn, đã hy sinh vì Tổ Quốc, đã có công đổi loạn ra trị, xây dựng thái bình cho nhơn sanh được hưởng an cư lạc nghiệp. Ðó là những đấng Phụ Mẫu chi dân thật xứng đáng những ân nhân ngàn đời của dân tộc Việt Nam vậy.
Ngài Bảo Thế Lê Thiện Phước trong dịp trùng tu xây hàng rào ngôi Báo Quốc Từ ngày 20 tháng 10 năm Bính Ngọ (Dl. 01/12/1966) có đọc bài Diễn Văn và được trích một đoạn như sau:
Để tô điểm cho Báo Quốc Từ được thêm vẻ tôn nghiêm, nhiều phần tử ưu tú trong vùng Long Hoa đã hoan hỷ chung lo xây dựng bức rào chung quanh ngôi thờ Tiền Nhân Vị Quốc Vong Thân. Ấy là một hành tàng đáng khen ngợi vầ phần vật chất và đáng chú ý về mặt tinh thần là ngộ khi quốc biến gia vong, chẳng luận là người thuộc giới Đạo hay Đời, phải đồng tình làm tròn bổn phận công dân đặng giải nguy cho dân tộc, cho thủy thổ. Chúng ta nên lưu ý rằng không phương mầu nào hơn phương pháp áp dụng đạo đức, nghĩa nhân để thức tỉnh thiên hạ quy về chánh pháp của Thiên Thượng thì dầu muốn dầu không khi “Thời lai vận khứ”, thanh bình sẽ phục hưng tạo lại một đời mới với dân mới trong an cư lạc nghiệp.
Mong thay!
Báo Quốc Từ ngui ngút khói hương,
Nghi thờ trên hết Tổ Hùng Vương.
(Thơ Huệ Phong).
報 應
Báo: Trả lại. Ứng: Đáp lại.
Báo ứng là được đền trả lại những gì do chính mình đã gây tạo, như làm lành trả lành, làm ác trả ác.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Vì làm giàu với những hành động bất chánh nên họ vẫn cứ phập phồng lo sợ không biết cơ mưu sẽ bại lộ ngày nào. Ðó thiệt là “Thanh bần thường lạc, trược phú đa ưu”. Lại có câu “Hoạnh tài bất phú”, ham dụng của phi nghĩa rốt cuộc cũng không hưởng được bền lâu, phép nước dầu không trừng trị thì luật Trời cũng không thứ tha, thiện ác đều có sự báo ứng.
Lẽ báo ứng cao thâm huyền diệu,
Cho chúng sanh đặng hiểu răn mình.
(Giới Tâm Kinh).
Nếu chẳng định tâm lo xét quấy,
Nhãn tiền báo ứng dễ đâu sai.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
報 應 眼 前
Báo ứng: Báo đáp trả lại. Nhãn tiền: Xảy ra trước mắt, xảy ra liền.
Báo ứng nhãn tiền là sự báo đáp trở lại liền trước mắt, không phải chờ đợi lâu.
Đó là báo ứng nhãn tiền,
Mau thì mình chịu lâu truyền cháu con.
(Kinh Sám Hối).
1.- Bào là lấy cái bào (dụng cụ của thợ mộc) để làm cho phẳng, cho trơn tấm gỗ.
Như: Bào cây cột cho bóng, trơn, lưỡi bào bén, bộ ván ngựa bào thật phẳng.
Thợ hay dầu đủ sức tài,
Giũa đêm chẳng đủ, bào ngày không kham.
(Ngụ Đời).
2.- Bào 胞 là cái nhau ở trong bụng người đàn bà khi tượng thai, không dùng một mình.
Như: Bào thai, bào huynh, bào đệ, đồng bào.
Dầu lớn khôn tước cả quyền cao,
Cũng nhớ thuở thai bào công chín tháng.
(Phương Tu Đại Đạo).
3.- Bào 泡 là cái bọt nước, hoặc cái bóng sáng, ý chỉ sự ngắn ngủi, hư ảo, không tồn tại bao lâu.
Như: mộng huyễn bào ảnh.
Xem: Bào ảnh.
Mộng huyễn bào ảnh đồ vi thị xuân,
Không sắc sắc không hà tu thậm dã.
(Tuý Sơn Vân Mộng).
4.- Bào 袍 là áo dài, tay rộng. Như: Cẩm bào, Chiến bào, người lên ngựa kẻ chia bào.
Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Anh (chỉ Quyền Giáo Tông) đã chán biết mỗi một sanh mạng của nó trong quân sĩ, nó phải cỗi áo cà sa mặc chiến bào đặng chuyển thế, gieo bảo sanh nhơn nghĩa đại đồng cho toàn nhơn loại.
Nghèo hèn đừng đổi lòng thành thật,
Mới đặng khi may mặc cẩm bào.
(Đạo Sử).
泡 影
Bào: Bọt nước, Ảnh: Cái bóng, cái hình.
Bào ảnh là cái bọt nước và cái bóng, là hai vật rất mong manh, dùng để chỉ sự hư ảo.
Kinh Kim Cang có câu: Nhất thiết hữu vi pháp như mộng huyễn, bào, ảnh như lộ diệc như điện ưng tác như thị quan 一 切 有 為 法 如 夢 幻 泡 影, 如 露 亦 如 電, 應 作 如 是 觀, nghĩa là các pháp hữu vi tức là việc đời như giấc chiêm bao, bọt nước và cái bóng, như giọt móc cũng như ánh sáng của chớp nhoáng thì hết thảy nên xem như vậy cả. Ý nói những sự hiện hữu trên cuộc đời này đều không được lâu bền.
Biết đời bào ảnh gìn thần sắc,
Biết kiếp vô thường giữ khí tinh.
(Thơ Cao Tiếp Đạo).
Bào chữa là dùng lý lẽ và chứng cớ để bênh vực cho việc gì đó đang bị lên án, hoặc cho một người nào đó phạm tội hình sự hay dân sự trước toà án.
Trong Thánh Ngôn Sưu Tập, Thánh giáo Thầy có dạy về việc Ngài Ngô Minh Chiêu như sau: Rủi thay! Đau đớn thay! Buổi khảo nó phải bị tà quái áp chế nên phải mất ngôi, song Ta cũng còn thương yêu chẳng nỡ, nhưng mà có mặt chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, thì khó bề bào chữa đặng.
Như phải đáng bào chữa thì Khai Đạo phân giải giữa hội cho ra lẽ oan ưng, Hiệp Thiên Đài cho lịnh thì mới dâng nội vụ lên cho Hiến Đạo.
(Pháp Chánh Truyền CG).
胞 兄
Bào: Bọc nằm trong bụng của người đàn bà, chỉ sự ruột thịt. Huynh: Anh.
Bào huynh là anh ruột, tức người cùng nằm trong bụng bà mẹ như mình.
Bào huynh nay đã về quê cũ,
Một giấc nghìn thu dứt nợ trần.
(Thơ Hương Cường).
炮 烙
Bào lạc là một thứ dụng cụ dùng để tra tấn tội nhơn rất ghê gớm. Sách Liệt Nữ Truyện chép: Một cột đồng dựng đứng có bôi mỡ, bên trong đốt than cháy đỏ rực. Tội nhân bị cột vào trụ đồng cho đến chết cháy như quay.
Hình phạt này có vào thời nhà Thương do Trụ Vương nghĩ ra. Lúc ấy, Trụ vương nghe lời Đắc Kỷ bày ra hình Bào lạc để giết hại người tôi trung. Hình bào lạc này được chế ra để xử Bà Khương Hoàng Hậu.
Trong bài kinh Sám Hối cho biết, dưới Diêm Đình cũng có dùng hình phạt “Bào lạc” để xử những tội hồn khi còn ở nơi dương thế tánh tình hung bạo đốt nhà người hay săn bắn loài chim thú.
Hình Bào lạc cột đồng vòi vọi,
Đốt lửa hồng ánh giọi chói loà.
(Kinh Sám Hối).
1.- Bảo, có khi đọc “Biểu”, là chỉ truyền, tức nói với người dưới hay người ngang hàng. Như: Bảo sao nghe vậy, Ai không đi thì bảo, ai bảo anh thế?
Thánh giáo Đức Chí Tôn dạy Ngài Thượng Trung Nhựt có câu: Thầy đã có sai chư Thần mách bảo với con đã lâu, trí thiêng liêng đem đàng dắt bước con đặng độ dẫn sanh linh cho kịp thì giờ trong buổi chung cuộc của con.
Rồi lựa thứ vật chơi con hảo,
Giả như tuồng khuyên bảo đem cho.
(Phương Tu Đại Đạo).
2.- Bảo 保 là giữ gìn, không dùng một mình. Như: Bảo dưỡng, bảo chứng, bảo hộ, bảo sanh.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Cần nhứt là chúng ta nên lưu tâm sự nhận định tình thế của Ðạo chẳng căn cứ theo bề ngoài mà phải căn cứ theo tinh thần thiệt mặt của Ðạo là cái căn bản của Ðạo Ðức Vô Hình đã được un đúc từ buổi ban sơ, và nhờ thế Thánh Thể nơi mặt thế của Ðức Chí Tôn mới cảm hoá nhơn tâm và bảo tồn nghiệp Ðạo.
Thiện tâm minh đạo đắc chơn truyền,
Bảo mạng trì thiên tắc đắc viên.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Chánh giáo bảo tồn thất ức niên,
Nhờ nơi luật pháp hiệp chơn truyền.
(Thơ Huệ Giác).
3.- Bảo 寶, còn đọc là “Bửu”, là quý báu. Như: Tam bảo, bảo kiếm, bảo vật.
Theo Phật giáo, tất cả các vị Phật là Phật bảo, Giáo pháp của Phật là Pháp bảo, những người theo Phật tu là Tăng bảo.
Đối với Cao Đài, Tam bảo là Phật, Pháp, Tăng như lời Thánh giáo của Đức Chí Tôn dã dạy: Thầy khai Bát Quái Đài mà tác thành Càn Khôn Thế Giái, nên gọi là Pháp, Pháp có mới sanh ra Càn Khôn Vạn Vật rồi mới có người nên gọi là Tăng.
Thầy là Phật chủ tể cả Pháp và Tăng, lập thành các Đạo mà phục hồi các con hiệp một cùng Thầy ".
Xem: Bửu.
Quy y Tam bảo lòng thanh tịnh,
Chứng ngộ nhiệm mầu cảnh giới phăng.
(Thơ Thanh Hương).
保 安
Bảo: Giữ gìn, che chở. An: Yên ổn.
Bảo an là giữ gìn cho yên ổn, an toàn.
Thánh giáo Quyền Giáo Tông có câu: Mấy em lấy chánh sách ôn nhu mà đối đãi với kẻ nghịch thù thì quyết thắng họ đặng. Qua cậy mấy em tha thứ lỗi của kẻ nghịch Qua, nhưng liệu phương bảo an Hội Thánh mà thôi.
Đắc truyền Khai Đạo Tam Kỳ,
Bảo an Toà Thánh đến kỳ cửu niên.
(Văn Tế Quyền Giáo Tông).
Đạo Cao Đài Nho Tông chuyển thế,
Giữ chơn truyền làm kế bảo an.
(Thơ Thái Đến Thanh).
Bảo: Gìn giữ cho đừng hư, mất. Bọc: Đùm kín, gói kín, bao kín để che giữ.
Bảo bọc là che chở, bao bọc, nuôi nấng, tức có những việc làm hỗ trợ người già, nhỏ, yếu đuối, hay tật nguyền.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Trong nước trên thương dưới, dưới kính trên, vắng trộm cướp, khỏi luật hình, vì quốc dân đặng bảo bọc giúp đỡ cho có nghề sanh nhai.
Xúm nhau bảo bọc cầu sinh,
Nhưng rồi chết hết để mình bơ vơ...
(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).
保 孤
Bảo: Giữ gìn, che chở. Cô: Mồ côi.
Bảo cô giữ gìn trẻ mồ côi, hay giúp đỡ, bảo dưỡng người neo đơn.
Từ ái biến thành cơ cứu khổ,
Bảo cô an định pháp sanh tồn.
(Thơ Huệ Phong).
保 養
Bảo: Giữ gìn, che chở. Dưỡng: Nuôi nấng.
Bảo dưỡng là chăm nom và nuôi nấng cha mẹ hay người già cả, tàn tật.
Bảo dưỡng còn có nghĩa là trông nom, giữ gìn và sửa chữa thường xuyên, như bảo dưỡng xe cộ, máy móc.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Tuy vân, lúc nọ mấy em có phương thế lắm mà mấy em chỉ có tâm vị kỷ, trót năm năm, Qua đi vắng đến khi Qua trở về, Qua còn thấy có kẻ đói không ai nuôi, rách rưới không ai bảo dưỡng, thất lạc nơi nầy nơi khác, đoàn em Qua gởi gấm đã xiêu lạc, thủ phận Ðạo không được, nên phải tìm đôi bạn sống theo Ðời, vì nếu ở thủ phận theo Ðạo thì cũng chẳng ai nuôi.
Phước Thiện bảo dưỡng khắp nơi,
Phước Thiện lập để cứu đời chúng sanh.
(Thất Nương Giáng Bút).
保 擔
Bảo: Giữ gìn, gánh trách nhiệm. Đảm: Nhận gánh lấy trách nhiệm.
Bảo đảm là nhận gánh vác một việc gì. Bảo đảm còn có nghĩa là bảo lãnh và đảm nhận.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có đoạn: Còn mang lấy xác thân là còn trách nhiệm cho đến ngày thở hơi cuối cùng. Phải tự nuôi tâm chí cho cao thượng, tự bảo đảm cái trách nhậm ấy đặng tự tạo con đường “sống còn” hầu giải thoát cho những kẻ đương “sống mất”.
Tự tín là gì? Là mình tin nơi sở sanh của mình có thể bảo đảm được sanh mạng cho mình.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
保 道
Hay “Bảo Đạo Chơn Quân”
Bảo Đạo là một phẩm chức sắc trong Thập Nhị Thời Quân, thuộc chi Đạo Hiệp Thiên Đài, dưới quyền trực tiếp của Đức Thượng Phẩm.
Bảo Đạo Chơn Quân 保 道 真 君 là một vị chức sắc Đại Thiên phong thuộc chi Đạo Hiệp Thiên Đài được Đức Chí Tôn phong cho Ngài Ca Minh Chương.
Theo Hiến pháp Hiệp Thiên Đài, Bảo Đạo là người có trách nhiệm bảo tồn luật Đạo, bảo hộ những điều cần ích cho Đạo đã ra mặt luật.
Ngoài ra, Pháp Chánh Truyền chú giải cũng có quy định: Khi tiếp cáo trạng các vụ án do Hiến Đạo dâng lên, Bảo Đạo phải gìn giữ bí mật ấy cho kín nhiệm, làm tờ lý đoán binh vực chiếu y luật Đạo rồi dâng lên cho Thượng Phẩm, đặng người lo phương bào chữa. Bảo Đạo là Đầu Phòng Văn của Thượng Phẩm.
Đạo phục của Ngài Bảo Đạo Chơn Quân theo Pháp Chánh Truyền quy định gồm có hai bộ:
Bộ Đại phục của Bảo Đạo toàn trắng, cổ trịch, viền kim tuyến bạc, đầu đội mão Nhựt Nguyệt mạo màu trắng, lưng đeo dây sắc lịnh, thả mối bên hong mặt (thuộc Đạo), chân đi giầy vô ưu trắng.
Bộ Tiểu phục cũng toàn hàng trắng, lưng mang dây sắc lịnh y như Đại phục, đầu đội Hỗn Nguơn mạo, trên mão có Long Tu Phiến và Phất Chủ (Cổ pháp Thượng Phẩm), chân đi giầy vô ưu màu trắng.
Bảo Đạo Hiệp Thiên Đài được Đức Chí Tôn phong cho Ngài Ca Minh Chương trong đàn cơ ngày 13 tháng 02 năm 1927 tại chùa Gò Kén.
Ngài Ca Minh Chương sinh năm 1850 (Canh Tuất), tại ấp Thanh Ba, làng Mỹ Lộc Tây, tổng Phước Điền Trung, quận Cần Giuộc, trong một gia đình theo Nho giáo. Hiền nội của Ngài là bà Phạm Thị Kế, sinh 1860, ông bà chỉ sinh được đứa con gái là Ca Thị Thế.
Ngài được dân làng cử lên làm chức Hương Bộ làng Mỹ Lộc, sau một thời gian làm việc, Ngài xin nghỉ để theo nghề dạy học.
Vào ngày 21 tháng 2 năm Bính Dần (Dl. 3/4/1926), Ngài Ca Minh Chương được người giới thiệu đến hầu đàn tại Vĩnh Nguyên Tự, Đức Chí Tôn ban cho Ngài một bài thi và thâu nhận làm môn đệ.
Thế thượng hề vô bá tuế nhân,
Thất tuần dĩ định vấn thời quân.
Ưu tư mạc vọng thường vô lộ,
Nghiệp trái tùy căn định số phần.
Khi ngộ Đạo rồi, Ngài Ca Minh Chương cùng với Ngài Phạm Văn Tươi được phân công phò loan tại đàn cơ ở Tân Kim quận Cần Giuộc, thuộc nhà ông Cựu Hội Đồng Nguyễn Văn Lai, để dân chúng đến hầu đàn nhập môn cầu Đạo.
Theo Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Đàn cơ lập Tịch đạo Nữ phái tại Chùa Gò Kén ngày 14 tháng 10 năm Bính Dần (Dl. 18/11/1926), Đức Chí Tôn giáng cơ cho bài thi tịch đạo rồi phong cho các vị nữ phái đầu tiên sau đây:
“Lâm thị: phong vi Giáo Sư, lấy Thiên ân Hương Thanh.
Ca thị: phong vi Phó Giáo Sư, lấy Thiên ân Hương Thế.
Ðường thị: đã thọ mạng Thiên sai, cứ giữ địa vị mình.
Còn cả chư ái nữ, Thầy sẽ lập đại hội cho đủ mấy vị rồi sẽ phong sắc một lần”.
Như vậy, trong đàn cơ nầy Đức Chí Tôn đã phong cho con gái Ngài Ca Minh Chương là Bà Ca Thị Thế vào phẩm Phó Giáo Sư (tức Giáo Hữu), thiên ân là Hương Thế cùng lượt với Bà Lâm Thị Thanh phẩm Giáo Sư.
Ngài Ca Minh Chương được Đức Chí Tôn phong vào chức Bảo Đạo Hiệp Thiên Đài trong đàn cơ lập Pháp Chánh Truyền Hiệp Thiên Đài vào ngày 12 tháng 1 năm Đinh Mão (Dl. 13/2/1927).
Trong thời gian hành Đạo, hoàn cảnh gia đình Ngài lâm vào cảnh bi đát: Ngài thì bị bịnh, vợ cũng mang bịnh, và con Ngài bị bịnh điên nên Đức Chí Tôn có giáng cơ cho bài thi an ủi Ngài như sau:
Thấy con gia đạo tợ tơ cuồn,
Chạnh đến lòng Thầy dạ ướm tuôn.
Ngặt nỗi vợ nhà đau dã dượi,
Khật khùng con trẻ nói luông tuồng.
Khiến nên mai đảnh khơi màu trắng,
Cho đến tòng lâm trổ sắc buồn.
Công quả đã đành công quả đủ,
Nay đem ba kiếp dập dồn luôn.
Theo ý nghĩa bài thi trên, Đức Chí Tôn cho biết vì thương tình người có căn tu, nên cho Ngài nhồi ba kiếp để Ngài trả hết nợ tiền khiên trong một kiếp nầy.
Ngài Ca Minh Chương là một vị Thời Quân lớn tuổi nhứt trong Thập Nhị Thời Quân. Vì vậy, Ngài chỉ hành Đạo gần ba năm thì mất vào ngày 19 tháng 10 năm Mậu Thìn (Dl. 30/11/1928), hưởng thọ 79 tuổi.
Lễ tang của Ngài được Đức Chí Tôn giáng cơ vào ngày 19 tháng 10 năm Mậu Thìn, dạy Hộ Pháp phải làm trọng thể giống như đám tang của Ngài Chưởng Pháp Trần Văn Thụ. Đoạn Thánh giáo dạy như sau:
Tắc! Phải biểu Cư xuống cho kịp đặng làm lễ y như lời Thầy dạy đám táng của Thụ, nhớ đừng bỏ nữa nghe!
Thầy cũng nhắc lại với con rằng: Ðủ ba năm phải thiêu hài cốt, lên tượng đặng đem nó vào Bát Quái Ðài nghe!
Nơi mộ nó phải để quan tài khỏi mặt đất một tấc mà đắp xây tháp y như lời Thầy đã dặn. Trên mặt tháp để chữ vàng: "Bảo Ðạo Chơn Quân" nhớ à!
1.- Bảo Đạo:
Cảnh trần ai đã tạo Thiên đàng,
Bảo Đạo Minh Chương tiếp lấy phan.
(Thơ Hộ Pháp).
Kỷ niệm hôm nay cảm mấy vần,
Xưa Ca Bảo Đạo đắc Thiên ân.
(Cội Đạo Bốn Mùa).
2.- Bảo Đạo Chơn Quân:
Bảo người ở thế gắng công tu,
Đạo đức cao thâm vẹt ngút mù.
Chơn chất thành tâm thì biện bạch,
Quân năng ưu Đạo lập công phu.
(Thánh Giáo Minh Thiện).
保 學 君
Bảo Học Quân, là một phẩm chức sắc trong Thập Nhị Bảo Quân của Hiệp Thiên Đài, có nhiệm vụ lo về việc tổ chức, xây dựng nền giáo dục trong tôn giáo, như giáo dục về giáo lý, đạo đức, giáo dục về văn hoá, xã hội, giáo dục về khoa học lịch sử...
Bảo Học Quân đối phẩm với Phối Sư bên Cửu Trùng Đài, theo tài liệu huấn luyện Giáo Hữu 1972, Thập Nhị Bảo Quân là hội đồng khoa học thuộc chi Thế Hiệp Thiên Đài.
Theo Đức Hộ Pháp, toàn thể Bảo Quân là Hàn Lâm Viện. Mỗi vị có sở thức sở năng, ấy là điều khác nhau đặc biệt, tỷ như Bảo Huyền Linh Quân, nghĩa là Thần linh hồn, khác với Bảo Học Quân thuộc về khoa học hay là thực tế học.
Như vậy, Hàn Lâm Viện Cao Đài là một cơ quan đặc biệt nằm ngoài Cửu Trùng Đài và Hiệp Thiên Đài, gồm mười hai Viện sĩ gọi là Thập Nhị Bảo Quân, mỗi vị chuyên môn một ngành, được kể theo Lời Phê Đức Hộ Pháp như sau:
|
1.- Bảo Huyền Linh Quân. |
|
2.- Bảo Thiên Văn Quân. |
|
3.- Bảo Địa Lý Quân. |
|
4.- Bảo Học Quân. |
|
5.- Bảo Cô Quân. |
|
6.- Bảo Sanh Quân. |
|
7.- Bảo Phong Hoá Quân. |
|
8.- Bảo Văn Pháp Quân. |
|
9.- Bảo Y Quân. |
|
10.- Bảo Nông Quân. |
|
11.- Bảo Công Quân. |
|
12.- Bảo Thương Quân. |
Nhưng theo Ngài Khai Pháp, trong quyển Chánh Trị Đạo, thì vị Bảo Phong Hoá Quân được thế là Bảo Sĩ Quân.
Vậy Bảo Học Quân là một trong Thập Nhị Bảo Quân dưới quyền chỉ huy của Giáo Tông và Hộ Pháp, được Đức Hộ Pháp phong cho Ngài Nguyễn Văn Lộc trong Đàn cơ vào năm 1972.
Nguyễn Văn Lộc sinh năm 1922 tại làng Long Châu, quận Châu Thành, Vĩnh Long, hiện nay là Thành Phố Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long.
Hồi năm 1945, Ngài đã tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp. Sau đó, Ngài từ bỏ kháng chiến, trở về Sài Gòn hành nghề xuất bản và ấn loát. Vào những năm 1948- 1949, Ngài làm giám đốc nhà xuất bản Sống Chung và cũng trong những năm nầy, Ngài lấy bút danh là Sơn Khanh, Nguyễn Tử Việt, Ngài có viết và xuất bản nhiều tác phẩm như Giai Cấp (1949), Tàn Binh (1949), Loạn (1949), và tuyển tập thơ "Mùa giải phóng" có nội dung chống thực dân Pháp. trong vùng kháng chiến.
Đến năm 1950, được dịp sang Pháp du học, Ngài Nguyễn Văn Lộc đỗ cử nhân Luật tại Đại Học Montpellier (Pháp) vào năm 1954 và cao học hình luật tại Đại học Paris (Pháp) năm 1964.
Khi trở về nước Ngài tham gia làm luật sư nhiều năm tại Toà thượng thẩm Sài Gòn. Cho đến năm 1964, Ngài được bầu làm Chủ tịch Hội Đồng Dân Quân, là cơ quan lập pháp.
Đến Tháng 11 năm 1967, Ngài được Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu chỉ định vào chức Thủ tướng đầu tiên của nền đệ nhị Việt Nam Cộng Hoà. Sau biến cố tết Mậu Thân 1968, Ngài bị buộc phải từ nhiệm chức Thủ tướng.
Kể từ đây, Ngài không tham gia làm chính trị nữa mà chuyển sang dạy học. Trong khoảng thời gian từ năm 1969 đến năm 1970, Ngài là giáo sư Đại Học Hoà Hảo ở An Giang.
Khi đạo Cao Đài thành lập Viện Đại Học ngày 17 tháng 4 năm 1973, Ngài được Hội Thánh Cao Đài bổ nhiệm làm Viện trưởng Viện Đại Học Cao Đài Tây Ninh trong hai năm liền từ 1971-1972.
Ngài Nguyễn Văn Lộc nhập môn vào đạo Cao Đài và xin tình nguyện phục vụ cho Đạo.
Trong Đàn cơ tại Giáo Tông Đường, ngày 23 tháng 9 năm Tân Hợi (Dl. 10/11/1971). Phò loan: Hiến Pháp - Khai Đạo. Hồi 20 giờ. Hầu đàn: Bảo Đạo, Đầu Sư, chư Chức sắc Hiệp Thiên Đài. Hầu bút: Truyền Trạng Lê Minh Khuyên.
Ngài Bảo Đạo bạch với Đức Hộ Pháp: Vị Cựu Thủ Tướng Nguyễn Văn Lộc hiện là Trạng Sư Toà Thượng Thẩm Sài Gòn có dâng tờ tình nguyện phục vụ cho Đạo. Hội Thánh Hiệp Thiên Đài cầu xin Đức Ngài thẩm định.
Hộ Pháp giáng dạy: Một điều đáng mừng cho Đạo. Người ấy đáng mặt làm nha trảo sẽ giúp hay nhiều việc. Bần đạo có ý định cho vào Thập Nhị Bảo Quân như Bảo Sanh Quân vậy, nhưng vai trò phải khác, chừng ra Cung Đạo sẽ phong chức trước sự hiện diện của Hội Thánh. Nhớ đưa hồ sơ ra Cung Đạo và phải có mặt vị nguyên thủ Lộc. Có thể mời trước để kiến diện Bần đạo và có lời khuyến khích, nhứt là cho có đủ ngày giờ sắm Đạo phục Bảo Quân như của Bảo Sanh Quân.
Đến đêm 15 tháng 11 năm Tân Hợi (Dl. 1/1/1972), hồi 20 giờ, tại Cung Đạo Đền Thánh, phò loan: Hiến Pháp - Khai Đạo. Hầu đàn: Bảo Đạo, Hiến Đạo, Đầu Sư, chư Chức sắc Hiệp Thiên Đài, Cửu Trùng Đài, Phước Thiện và toàn đạo nam nữ. Hầu bút: Truyền Trạng Lê Minh Khuyên, Giáo Hữu Thượng Tám Thanh.
Ngài Hiến Đạo bạch: Cầu xin Đức Ngài phong vị chính thức cho 3 vị Bảo Quân.
Đọc danh sách:
- Trương Kế An, đắc phong Bảo Y Quân.
- NGUYỄN VĂN LỘC, đắc phong BẢO HỌC QUÂN.
- Đặng Văn Dắn, đắc phong Bảo Nông Quân.
Ngài Hiến Đạo bạch: Cầu xin Đức Ngài chỉ giáo về sự đối phẩm và tiểu phục của chư vị Bảo Quân.
Đối phẩm Phối Sư. Tiểu phục cũng sửa lại còn một Thiên Nhãn như Hộ Đàn.
Ngài Hiến Đạo bạch: Xin Đức Ngài chỉ định chư vị Bảo Quân đứng cúng chỗ nào?
Bảo Quân đứng hai bên tả hữu dưới cấp bực của Hiệp Thiên, như có một thì đứng bên chi Thế.
Như vậy, Đạo phục của Bảo Học Quân vẫn có hai bộ:
Đại phục: Áo tràng trắng như Thời Quân, đội Nhựt Nguyệt Mạo, giống như các chức sắc Hiệp Thiên Đài, ngay giữa mão, có thêu một Thiên nhãn Thầy.
Tiểu phục như Hộ Đàn Pháp Quân, nghĩa là áo tràng trắng, đầu đội mão Tam Quang không có thêu, nhưng có một Thiên nhãn ngay giữa.
Chơn đi giày Vô ưu cũng bằng hàng trắng.
Năm 1984, Ngài Bảo Học Quân Nguyễn Văn Lộc sang định cư tại Houston, nước Mỹ, sau đó Ngài quyết định sang Pháp an dưỡng tuổi già. Cho đến ngày 31 tháng 05 năm 1992 (Nhâm Thân) Ngài đăng Tiên tại Thành Phố PARI Pháp. Hưởng Thọ 70 tuổi.
Nói về công nghiệp của Bảo Học Quân Nguyễn Văn Lộc, nhân ngày bác sĩ Lê Văn Hoạch, Bảo Sanh Quân Hiệp Thiên Đài nhận chức viện trưởng, Ngài Thời Quân Khai Đạo, Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị Viện Đại Học Cao Đài đã cho biết như sau:
Suốt gần hai niên khoá 1971 - 1972 và 1972-1973 với tư cách quyền viện trưởng tôi xin xác nhận thành quả tốt đẹp của viện, một phần lớn công do Luật Sư Nguyễn Văn Lộc, Bảo Học Quân, nhị vị khoa trưởng là tiến sĩ Lê Trọng Vinh và kỹ sư Đoàn Minh Quang đảm nhiệm điều hành giảng huấn….
Bảo Sanh Quân cũng có công việc từ thiện Phạm Môn. Bảo Y Quân cũng có nhiệm vụ từ thiện. Bảo Học Quân thì trùm hết. Bảo Nông Quân thì vai chánh về lương điền công nghệ và luôn cả công thương, nên mới có sự liên hệ với nhau.
(Thánh Giáo Hộ Pháp).
保 護
Bảo: Giữ gìn. Hộ: Giúp đỡ.
1.- Bảo hộ là nước mạnh đánh chiếm nước yếu, lấy cớ là để bảo hộ.
Như: Việt Nam chịu ách bảo hộ của Pháp.
Vậy Thầy nhờ con truyền bá Giáo lý nầy cho dân tộc đặt dưới quyền bảo hộ của con.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
2.- Ngoài ra, Bảo hộ còn có nghĩa là che chở, giữ gìn giúp đỡ không để bị hư hỏng, tổn thất.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển Thánh giáo Đức Chi Tôn có câu: Lo bảo hộ Luật đời và Luật Ðạo, chẳng ai qua Luật mà Hiệp Thiên Ðài chẳng biết.
Ở ngay thẳng Thần minh bảo hộ,
Nết xéo xiên gặp chỗ rạc tù.
(Kinh Sám Hối).
Phước Thiện bảo hộ người cùng,
Việt Nam làm chủ vẫy vùng tự do.
(Thất Nương Giáng Bút).
Hay “Bảo lĩnh”.
Bảo: Gánh trách nhiệm. Lãnh (lĩnh): Nhận lấy.
Bảo lãnh, như chữ “Bảo lĩnh 保 領”, là bảo đảm người khác thực hiện một nghĩa vụ và chịu trách nhiệm nếu người đó không thực hiện.
Bảo lãnh đồng nghĩa với chữ “Bảo đảm 保 膽”.
Thầy bảo lãnh các con, un đúc chí Thánh của các con, đã mãn kỳ, phải giao lại cho Toà Tam Giáo được phép lấy mực công bình mà chuẩn phê các cử chỉ của mỗi đứa.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
保 法
Hay “Bảo Pháp Chơn Quân”.
Bảo Pháp là một phẩm chức sắc trong Thập Nhị Thời Quân, thuộc chi Pháp Hiệp Thiên Đài, dưới quyền trực tiếp của Đức Hộ Pháp.
Bảo Pháp Chơn Quân 保 法 真 君 là một vị chức sắc Đại Thiên phong thuộc Chi Pháp Hiệp Thiên Đài được Đức Chí Tôn phong cho Ngài Nguyễn Trung Hậu.
Theo Hiến pháp Hiệp Thiên Đài, Bảo Pháp là người có trách nhiệm bảo tồn luật pháp của Đạo, bảo hộ không cho ai phạm đến những điều luật nào đã thành mặt luật. Ngoài ra, Pháp Chánh Truyền chú giải cũng có quy định: Khi tiếp nhận giấy tờ do Hiến Pháp dâng lên, Bảo Pháp phải gìn giữ bí mật, kín nhiệm, làm tờ xét và định án chiếu y theo luật Đạo, rồi dâng lên cho Hộ Pháp đặng Người phân xử.
Đạo phục của Ngài Bảo Pháp Chơn Quân theo Pháp Chánh Truyền quy định gồm có hai bộ:
Áo Đại phục của Bảo Pháp toàn hàng trắng, cổ trịch, viền kim tuyến bạc, đầu đội mão Nhựt Nguyệt mạo màu trắng, lưng đeo dây sắc lịnh, thả mối ngay giữa bụng (Thuộc Pháp), chân đi giầy vô ưu trắng.
Áo Tiểu phục cũng toàn hàng trắng, lưng mang dây sắc lịnh y như Đại phục, đầu đội Hỗn Nguơn mạo, trên mão có để cổ pháp Hộ Pháp (Xuân Thu, Phất chủ, và Bát Vu), chân đi giầy vô ưu màu trắng.
Bảo Pháp Hiệp Thiên Đài được Đức Chí Tôn phong cho Ngài Nguyễn Trung Hậu trong đàn cơ ngày 12 tháng 01 năm Đinh Mão (Dl. 13-2 1927) tại chùa Gò Kén.
Ngài Nguyễn Trung Hậu, tên thật là Nguyễn Văn Hậu, sanh ngày 05 tháng 03 năm Nhâm Thìn (Dl. 01-4- 1892) tại làng Bình Hoà, tỉnh Gia Định. Thân phụ là cụ Nguyễn Phục Lễ, là Đông Y Sĩ và thân mẫu là cụ bà Lê Thị Cơ, người thuộc tỉnh Bình Định.
Hiền nội của Ngài Nguyễn Trung Hậu là bà Diệp Thị Nguy, quy vị vào cuối năm Nhâm Thìn, 1953. Hai Ông Bà có tám người con, gồm 5 trai 3 gái.
Ngài tốt nghiệp trường Sư Phạm Gia Định, được bổ làm giáo viên tại một trường Tiểu Học ở đường Tabert, khi trường nầy bị bãi bỏ, sau đổi Ngài về dạy trường Tiểu Học ở đường Richaud.
Năm 1919, Ngài làm thư ký cho ông Giám Đốc các trường Tiểu Học Sài gòn.
Năm 1922, Ngài xin nghỉ làm thư ký để làm Giám Đốc Tư Thục Internat de Dakao ở đường D’Ariès, nay là Huỳnh Khương Ninh.
Ngài Nguyễn Trung Hậu là một thi sĩ có tiếng tăm đã tham gia vào Ngưu Giang Thi Xã vào các năm 1918-1920. Ngài lấy bút hiệu là Thuần Đức.
Năm 1925, Nguyễn Trung Hậu nghe đồn tại nhà Cao Quỳnh Cư ở số 134 Bourdais (nay là đường Calmette), có một nhóm người xây bàn thỉnh vong, trong đó có các Đấng Thiêng liêng thường về cho thi hay lắm, Ngài bèn tìm tới ý muốn thử xem thiệt giả.
Đến nơi Ngài xin hầu Đàn, Đấng A Ă Â bèn gõ Bàn cho bài thi tứ tuyệt nói về Ngài như sau:
Thuần văn chất Ðức tài cao,
Tên tuổi làng thơ đã đứng vào.
Non nước muốn nêu danh tuấn kiệt,
Ðến hồi búa Việt giục cờ Mao.
Khi tiếp nhận được bài thi, Ngài Nguyễn Trung Hậu rất thán phục và tin tưởng, vì ở đây không ai biết bút hiệu của Ngài là Thuần Đức, cho nên sau đó Ngài xin nhập môn cầu Đạo.
Đến năm 1926, Ngài giao trường Internat de Dakao lại cho ông Huỳnh Khương Ninh, rồi gia nhập vào đạo Cao Đài.
Kể từ đó Ngài dạy Pháp văn cho các trường Hưng Việt, Nguyễn Anh Bổn, Nguyễn Du và tham gia viết cho các báo như Đuốc Nhà Nam, Hoàn Cầu, Tân Văn, rồi sau đó làm chủ bút tạp chí La Revue Caodaiste để truyền bá giáo lý của Đạo Cao Đài cho người ngoại quốc.
Ngài Nguyễn Trung Hậu được Đức Chí Tôn nhận làm một trong mười hai vị môn đệ đầu tiên, có nêu tên trong một bài thi tứ tuyệt như sau:
Chiêu Kỳ Trung độ dẫn Hoài sanh,
Bản đạo khai Sang Quý Giảng thành.
Hậu Ðức Tắc Cư Thiên Ðịa cảnh,
Hườn Minh Mân đáo thủ đài danh.
Đến đêm 30 tháng chạp năm Ất Sửu (dl 12-2-1926), Đấng Thượng Đế giáng cơ cho mỗi người đệ tử đầu tiên một bài thi, trong đó bài thi của Ngài Bảo Pháp Chơn Quân như sau:
Thuần phong mỹ tục giáo nhơn sanh,
Đức hóa thường lao mạc vị danh.
Hậu thế lưu truyền gia pháp quý,
Giáo dân bất lậu, tán thời manh.
Trong quyển Đạo Sử của Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu, trong Đàn cơ ngày 24 tháng 6 năm 1926, Đức Chí Tôn có ban cho Ngài một bài thi sau:
Đã có căn phần dựa cảnh Tiên,
Bước đời chớ quản bậc sang hèn.
Mưa mai nắng xế chờ qua khỏi,
Đêm tối lần ra gặp ánh đèn.
Ngày 15 tháng 3 năm Bính Dần (Dl. 26/04/1926), Đức Chí Tôn phong Ngài Nguyễn Trung Hậu làm Tiên Đạo Phò Cơ Đạo Sĩ.
Đến ngày 12 tháng 01 năm Đinh Mão (Dl. 13-02-1927), Đức Chí Tôn lập Pháp Chánh Truyền Hiệp Thiên Đài và phong Ngài Nguyễn Trung Hậu vào phẩm Bảo Pháp Hiệp Thiên Đài.
Ngày 07 tháng 03 năm Quý Dậu (Dl. 01-04-1933), Ngài Bảo Pháp Nguyễn Trung Hậu được cử tạm quyền Thái Chưởng Pháp, Bảo Thế Lê Thiện Phước cử tạm quyền Thượng Chưởng Pháp và Hiến Đạo Phạm Văn Tươi cử tạm quyền Ngọc Chưởng Pháp do Châu Trí số 1 của Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung và Đức Hộ Pháp ký.
Ngày 15 tháng 4 năm Đinh Dậu (Dl. 14-05-1957), Ngài được Hội Thánh cử làm Giám Đốc Hạnh Đường, huấn luyện chức sắc.
Ngài Bảo Pháp có cảm tác bài thi để kỷ niệm:
Hội Thánh giao cai quản Hạnh đường,
Ân cần lo lập kỷ trần cương.
Giúp người tâm chí hành Thiên mạng,
Tuyển bực nhân hiền trấn tứ phương.
Học hỏi khép vào khuôn Đạo lý,
Lọc lừa mở rộng cửa khoa trường.
Góp phần xây dựng trong muôn một,
Khó vẫn không nao, nhọc chả màng.
Trong Đàn cơ tại Giáo Tông Đường, lúc 20 giờ, ngày 29 tháng 9 năm Đinh Dậu (Dl. 20/11/1957), phò loan: Thượng Sanh và Bảo Pháp, Đức Quyền Giáo Tông giáng cơ hoạ lại bài của Ngài Bảo Pháp như sau:
Học vấn từ đây Đạo mở đường,
Luyện trau Chức sắc kỷ hoà cương.
Quyền đời hóa chúng còn phô đức,
Cửa Thánh độ người há kém phương.
Giáo lý dồi dào nung khách trí,
Nho phong nhuần gội vững can trường.
Lập công đem đổi nên Thiên vị,
Đèn sách bền theo nhọc chớ màng.
Ngài Bảo Pháp Nguyễn Trung Hậu có viết và xuất bản nhiều sách Đạo như: Luận Đạo Vấn Đáp (1927), Tiên Thiên Tiểu Học (1927), Châu Thân Giải, Ăn Chay, Đức Tin, Chơn Lý (1928), Đại Đạo Căn Nguyên (1930), Thiên Đạo (Viết chung với Phan Trường Mạnh 1955), Luân Hồi Quả Báo (Viết chung với Ngài Khai Đạo Phạm Tấn Đãi 1956)...
Do viết rất nhiều sách, Ngài sợ có khuyết điểm gì chăng, nên trong một Đàn cơ ngày 10 tháng 4 năm Đinh Mão (Dl. 10/5/1927) Ngài cầu hỏi Đức Chí Tôn.
Đức Chí Tôn giáng cơ đáp: Hậu, sách con làm ra đều có giá trị là nhờ có Thầy giáng tâm con. Con sợ sai lầm cũng phải, nhưng về sự sai siển, dầu bậc Thánh xưa làm sách cũng còn nhiều chỗ khuyết điểm.
Vậy con cứ an lòng mà làm ích thêm nữa. Thầy hằng ở bên con mà dìu dắt cho trí hóa rộng thêm, nghe con.
Ngoài việc làm thi và soạn sách giáo lý, Ngài Bảo Pháp Nguyễn Trung Hậu tuy tự học về chữ Nho, nhưng Ngài còn có tài về soạn liễn đối, chính Ngài đã đặt ra đôi liễn trên Thuyền Bát Nhã như sau:
Vạn sự viết vô, nhục thể ký quy Tam xích thổ.
萬 事 曰 無 肉 體 旣 歸 三 尺 土
Thiên niên tự hữu, linh hồn trực đáo Cửu trùng thiên.
千 年 自 有 靈 魂 直 到 九 重 天
Nghĩa là:
Muôn việc đều không, xác thể đã về ba tấc đất.
Ngàn năm tự có, linh hồn vượt thẳng chín tầng trời.
Hai câu liễn của Ngài được Hội Thánh dâng lên Đức Lý Giáo Tông thì Đức Lý chỉnh lại phần cuối câu như sau:
Vạn sự viết vô, nhục thể thổ sanh hoàn tại thổ.
萬 事 曰 無 肉 體 土 生 還 在 土
Thiên niên tự hữu, linh hồn thiên tứ phản hồi thiên.
千 年 自 有 靈 魂 天 賜 反 囬 天
Nghĩa là:
Muôn việc đều không, xác thể đất sanh hườn lại đất.
Ngàn năm tự có, linh hồn trời ban trở về trời.
Ngài Bảo Pháp hành Đạo tại Toà Thánh cho đển cuối năm 1958, do tuổi già sức khỏe yếu dần, lại thường hay bị áp huyết cao, Ngài Bảo Pháp phải xin phép lui về dưỡng bịnh tại tư gia ở đường Ngô Tùng Châu, Gia Định.
Đến ngày 7 tháng 9 năm Tân Sửu (Dl. 16/10/1961), Ngài Bảo Pháp Nguyễn Trung Hậu đăng Tiên lúc 16 giờ 50 phút, hưởng thọ 70 tuổi. Linh cữu được an táng tại nghĩa trang gia đình ở Gia Định.
Vào năm 1974, tức là 13 năm sau, các con Ngài làm đơn dâng lên Hội Thánh xin cải táng hài cốt Ngài về nơi Thánh Địa Tây Ninh. Quyền Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài lúc ấy là Ngài Hiến Pháp chấp thuận. Cuộc Lễ cải táng Ngài Bảo Pháp do Hiến Pháp, Chưởng Hiệp Thiên Đài đích thân tổ chức vào ngày 4 tháng 9 năm Giáp Dần (1974).
Theo lời thuật lại của gia đình, mặc dù đã mười ba năm qua nhưng hài cốt của Ngài Bảo Pháp vẫn còn nguyên vẹn, chưa tiêu hủy hay khô cứng, vì thế Đạo tỳ chỉ dùng rượu chỉnh sửa hài cốt của Ngài theo thế ngồi bắt ấn Tý để liệm vào Liên đài.
Liên đài của Ngài được quàn tại tư gia một đêm, sau đó Hội Thánh rước Liên Đài kỵ Long mã về Báo Ân Từ rồi thiết lễ tế điện và câu siêu.
Qua ngày 7 tháng 9 năm Giáp Dần Hội Thánh di Liên đài Ngài Bảo Pháp đến Đền Thánh, thỉnh Bửu ảnh vào kỉnh lễ Đức Chí Tôn, rồi di Liên đài nhập bửu tháp tại đất Ao Hồ.
Ngài Bảo Pháp Nguyễn Trung Hậu có để lại một tài liệu mà Ngài đã cầu hỏi Đức Chí Tôn trong Đàn cơ ngày 3 tháng 7 năm Đinh Mão (Dl. 31/7/1927), thì Ơn trên cho biết nguyên căn của Đức Ngài chính là Xích Tinh Tử, một vị Tiên trong mười hai vị Đệ tử của Nguơn Thủy Thiên Tôn, Giáo chủ Xiển giáo.
Bài Thài tế lễ Ngài Bảo Pháp Chơn Quân như sau:
Nhà Phật hôm nay giữ Ðạo mầu,
Phiền ba ngảnh lại có vui đâu.
Tẽ đường phi thị, noi đường tịnh,
Tìm cửa từ bi, lánh cửa hầu.
Xác thịt trải qua miền gió bụi,
Nắm xương nhờ gởi bóng tang du.
Lửa lòng vụt tắt từ đây vẫn,
Giọt nước nhành dương gội tấm sầu.
1.- Bảo Pháp:
Phần của Hộ Pháp chưởng quản về Pháp thì: Hậu là Bảo Pháp, Ðức là Hiến Pháp, Nghĩa là Khai Pháp, Tràng là Tiếp Pháp.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
2.- Bảo Pháp Chơn Quân:
Bảo Pháp Chơn Quân đã lánh trần,
Nương về cựu vị cảnh đài vân.
(Thơ Thượng Sanh).
Bảo Pháp Chơn Quân khuất bóng rồi,
Từ đây thui thủi một mình tôi.
(Thơ Hiến Pháp).
保 國
Bảo: Gìn giữ. Quốc: Nước, đất nước.
Bảo quốc là bảo vệ quốc gia, ý muốn nói là gìn giữ bảo vệ đất nước.
Như: Bảo quốc an dân.
Xem: Bảo quốc hộ dân.
An dân buồn thiếu trang hiền sĩ,
Bảo quốc vui nhờ Đức Thánh nhân.
(Thanh Sơn Chơn Nhơn).
Hay “Bảo sinh”.
Bảo: Giữ gìn. Sanh (Sinh): Sanh mạng, mạng sống.
Bảo sanh, hay “Bảo sinh 保 生” là giữ gìn sinh mạng, bảo toàn sự sống.
Đức lớn của Trời đất là sự sinh. Người là một phần nhỏ của muôn vật, cho nên cũng phải theo lẽ Trời mà sinh hoá. Khổng giáo lấy sự sinh làm gốc cho hành vi thiện ác: Việc gì hợp với đức sinh là thiện, trái với đức sinh là ác. Như vậy, cái tông chỉ của Đạo Khổng là theo Thiên lý mà bồi bổ cho sự sinh của vạn vật, hay nói cách khác, là phải bảo sanh vạn vật.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Đức Chí Tôn có day: Sự thương yêu là giềng bảo sanh của Càn khôn Thế giới. Có thương yêu, nhơn loại mới hoà bình, Càn khôn mới an tịnh. Ðặng an tịnh mới không thù nghịch lẫn nhau, mới giữ bền cơ sanh hoá.
Tạo đời cải dữ ra hiền,
Bảo sanh nắm giữ diệu huyền Chí Tôn.
(Kinh Tận Độ).
Bảo sanh bủa khắp năm châu,
Toàn cầu chung hưởng phép mầu Chí Linh.
(Kinh Cúng Chiến Sĩ).
Bảo Sanh (sinh) Quân 保 生 君, là một phẩm chức sắc trong Thập Nhị Bảo Quân của Hiệp Thiên Đài, có nhiệm vụ bảo tồn sự sống cho nhơn loại và cứu tế cho người nghèo, giúp đỡ cho kẻ hoạn nạn.
Bảo Sanh Quân đối phẩm với Phối Sư bên Cửu Trùng Đài, theo tài liệu huấn luyện Giáo Hữu 1972, Thập Nhị Bảo Quân là hội đồng khoa học thuộc chi Thế Hiệp Thiên Đài.
Theo Đức Hộ Pháp, toàn thể Bảo Quân là Hàn Lâm Viện. Mỗi vị có sở thức sở năng, ấy là điều khác nhau đặc biệt, tỷ như Bảo Huyền Linh Quân, nghĩa là Thần linh hồn, khác với Bảo Học Quân thuộc về khoa học hay là thực tế học.
Như vậy, Hàn Lâm Viện Cao Đài là một cơ quan đặc biệt nằm ngoài Cửu Trùng Đài và Hiệp Thiên Đài, gồm mười hai Viện sĩ gọi là Thập Nhị Bảo Quân, mỗi vị chuyên môn một ngành, được kể theo Lời Phê Đức Hộ Pháp như sau:
|
1.- Bảo Huyền Linh Quân. |
|
2.- Bảo Thiên Văn Quân. |
|
3.- Bảo Địa Lý Quân. |
|
4.- Bảo Học Quân. |
|
5.- Bảo Cô Quân. |
|
6.- Bảo Sanh Quân. |
|
7.- Bảo Phong Hoá Quân. |
|
8.- Bảo Văn Pháp Quân. |
|
9.- Bảo Y Quân. |
|
10.- Bảo Nông Quân. |
|
11.- Bảo Công Quân. |
|
12.- Bảo Thương Quân. |
Nhưng theo Ngài Khai Pháp, trong quyển Chánh Trị Đạo, thì vị Bảo Phong Hoá Quân được thế là Bảo Sĩ Quân.
Vậy Bảo Sanh Quân là một trong Thập Nhị Bảo Quân dưới quyền chỉ huy của Giáo Tông và Hộ Pháp, được Đức Chí Tôn phong cho Ngài Lê Văn Hoạch.
Trong Đàn cơ ngày 15 tháng 12 năm Đinh Mão (Dl. 7/1/1928), Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông dạy Ngài Lê Văn Hoạch sắm Bộ Đại phục như sau:
Hỷ chư Đạo hữu,
Hoạch, nên may Thiên phục theo lời dạy sau đây: Áo trắng y theo của Thập Nhị Thời Quân và các Chức sắc khác nơi Hiệp Thiên Đài. Mão trắng theo của Mỹ Ngọc, nhưng không có bông sen, ngay giữa mão thêu một Thiên Nhãn, chí bìa dưới mão lên cho đủ chỗ thêu Thiên Nhãn, chừa 4 phân, hai bên tả hữu mão, hai Thiên Nhãn, hết thảy là ba. Một sợi dây Tiên thằng buộc vòng bìa mão, bề ngang 5 phân, bề dài 2 thước, buộc thế nào chừa Thiên Nhãn ngay giữa mão ra, cho hai mối thòng xuống hai bên vai.
May cho kịp đặng mùng 1 hoặc mùng 2 tới đây hầu Đức Từ Bi. Sẽ dâng cho Lão coi khi may rồi nghe.
Như vậy, bộ Đại Phục của Bảo Sanh Quân toàn bằng hàng trắng, đầu đội Nhựt Nguyệt Mạo giống như các chức sắc Hiệp Thiên Đài, ngay giữa mão, từ bìa lên bốn phân thêu một Thiên nhãn, hai bên mão thêu hai Thiên nhãn nữa, cả thảy là ba.
Vòng theo vành mão cột một sợi dây Tiên Thằng (bề ngang 8 phân, bề dài hai thước) buộc thế nào chừa Thiên nhãn ngay giữa mão ra, cho hai mối thòng xuống hai bên vai. Lưng đai Song Quang Thần Thông, nghĩa là một đường lụa trắng, kết hai bên hai vòng vô vi.
Chơn đi giày Vô ưu cũng bằng hàng trắng.
Ngài Lê Văn Hoạch sinh năm 1896 tại Phong Điền, tỉnh Cần Thơ, Ngài tốt nghiệp Y khoa Bác sĩ tại Pháp năm 1923.
Ngài nhập môn vào đạo Cao Đài và được Đức Chí Tôn phong làm Bảo Sanh Quân trong Đàn cơ năm 1930.
Vào ngày 10 tháng 11 năm 1946, Thủ tướng Cộng hoà tự trị Nam Kỳ lúc đó là ông Nguyễn Văn Thinh (Bác sĩ) đã chết. Hội đồng tư vấn Nam Kỳ nhóm họp để bầu người lên thay. Dưới sự chủ tọa của chủ tịch Béziat, hội đồng tư vấn chọn Ngài Lê Văn Hoạch lên làm Thủ tướng.
Khi nhận chức Thủ tướng Ngài Lê Văn Hoạch chủ trương "Nam kỳ tự trị" phân ly nên gặp sự phản đối quyết liệt của quần chúng, do vậy chính phủ của Ngài chỉ tồn tại 10 tháng, cho đến tháng 9 năm 1947 thì sụp đổ.
Kể từ đó, Ngài không tham gia chính trị nữa, lui về đường đạo đức, nên Ngài thường xuyên có mặt trong những đàn cơ do Hội Thánh tổ chức. Đức Chí Tôn và các Đấng có giáng cơ dạy bảo Ngài, sau đây là Đàn cơ tại Báo Ân Từ, ngày 26 tháng 8 năm Đinh Hợi (Dl. 10/10/1947). Phò loan: Hộ Pháp - Khai Pháp, Đức Chí Tôn giáng dạy như sau:
Các con, Đợi Thầy một chút nghe.
Tắc, Nghĩa, đứng dậy hai con.
Cười... Thầy để dấu lại khi Diêu Trì Kim Mẫu giáng lâm biết Thầy có đến.
Hoạch!, con hiểu trước Thánh ý Thầy rồi, cây phướn chiêu hồn của nhơn loại chưa đặng trọn linh diệu hầu quy tụ thiên lương nên phản trắc nhơn tâm, phi ân vô đạo là thường tình, chẳng chi lạ mà con ái ngại. Thầy đã hứa rằng, quốc gia các con sẽ phục hoàn, các con tin nơi Thầy mong lòng giúp sức.
Con Hoạch, trọng trách con, Thầy đã phó thác thì tức nhiên Thiên mạng nơi con đã sẵn, an lòng đợi mạng lịnh Thầy, con nghe. Trung, Cư, Hương Thanh thường ở bên con hằng lo giúp đỡ, con khá thường kêu chúng nó nghe. Thầy sẽ dạy Trung đến thường hội hiệp cùng các con đặng chung lo cho tổ quốc các con. Ấy Thầy mới trọn hứa cùng các con đó.
Thầy ban ơn cho các con nam và nữ.
Và trong Đàn cơ đêm 22 tháng 12 năm Kỷ Sửu (Dl. 8/2/1950), Đức Cao Thượng Phẩm giáng cơ dạy Ngài Bảo Sanh Quân như sau:
Bảo Sanh Quân là một phần trọng yếu với danh từ của Chí Tôn đặt để. Vậy Hiền hữu khá trọn tâm làm thế nào cho được sự hạnh phúc cho dân, thì các Ðấng sẽ sẵn sàng ám trợ mỗi việc đều được thành công. Vai tuồng của Hiền hữu còn dài, nhơn sanh còn đương mong mỏi thì phải để cho một chí hướng cao siêu tầm phương hay làm đời thoát khổ và bảo tồn sự sống của nhơn loại. Ấy là sở định trách nhậm của Hiền hữu đó."
Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung cũng có giáng cơ giải thích cho Ngài Bảo Sanh Quân về chuyện Đạo Đời như sau:
Nay có sự hiện diện của Bảo Sanh Quân, Qua rất vui mừng và khuyên Hiền đệ nên để trọn tâm chí với Ðạo, vì Hiền đệ đã chán hiểu tuồng đời ra thế nào rồi mà còn đeo đuổi làm gì cho nhọc thể xác lẫn tâm hồn. Hiền đệ nên nhớ rằng khi xưa Qua có tài cán gì đâu, bất quá là một học trò khó, chỉ có mảnh văn bằng trung học mà cũng nhờ thời thế tạo anh hùng mà Qua đi đến nơi đến chốn, dám nói rằng đi tới Trời; huống gì Hiền đệ có đủ khả năng mà nỡ nào bỏ trôi cho đành. Lại nữa, Hiền đệ đang mang sứ mạng Bảo Sanh đâu phải tầm thường. Một điều cần lưu ý là lấy đạo đức thắng hung bạo, dùng nghĩa nhân quy phục lòng dân, ấy là phương lập quốc trường cửu đó."
Sau nầy Ngài Lê Văn Hoạch nhiều lần giữ chức vụ Quốc Vụ Khanh trong nhiều chính phủ với tư cách là nhân sĩ Cao Đài trong cả hai thời kỳ Quốc Gia Việt Nam và Việt Nam Cộng Hoà.
Khi đạo Cao Đài thành lập Viện Đại Học ngày 17 tháng 4 năm 1973, Ngài được Hội Thánh cử giữ chức Viện trưởng đầu tiên. Vì tuổi già sức yếu, Ngài chỉ giữ chức vụ một thời gian rồi từ chức và trở về quê nhà ở Cần Thơ để an dưỡng.
Sau một cơn bịnh, Ngài Lê Văn Hoạch mất vào năm 1978 tại tư gia, hưởng thọ 83 tuổi.
Về công nghiệp đối với Đạo, Đức Hộ Pháp trong một đoạn Thuyết đạo có tán tụng Ngài Bảo Sanh Quân đã tận tình vận động giúp cho Đạo có được viện ngọc Xá lợi và cây Bồ đề của Phật giáo Tích Lan:
Ngài nói: “Ba cây Bồ Đề cho Tiểu Thừa một cây, cho Tiểu Thừa Phật Giáo Miên Quốc một cây, còn một cây của Đại Thừa đem về Toà Thánh. Hột Ngọc Xá Lợi đem về Toà Thánh hôm nay là đặc biệt của Đại Đức Narada Théra, Phó Giáo Tông của Đạo Giáo Tích Lan, lấy của tư của Ngài hiến cho Toà Thánh. Chúng ta thấy cả hành tàng cả sự khó khăn đem Ngọc Xá Lợi về Toà Thánh đều do nơi công nghiệp vĩ đại của Ngài Bảo Sanh Quân Hiệp Thiên Đài, tức nhiên Phó Thủ Tướng Việt Nam đương giờ này là Ông Bảo Sanh Quân Lê Văn Hoạch, ông đã chịu nhọc nhằn cả thảy con cái Đức Chí Tôn đều ngó thấy. Ngài hạ mình xin cho đặng Ngọc Xá Lợi ấy thế nào? Nên hôm Ngài trở về Sài Gòn, Bần Đạo nhân danh toàn thể con cái Đức Chí Tôn và Hội Thánh nam nữ lưỡng phái để lời cám ơn ông Bảo Sanh Quân rồi, và Bần Đạo
sẽ cho các cơ quan Chánh Trị Đạo làm một tờ chúc thơ cảm tạ công nghiệp của Ngài”.
May thay Tân Chánh Phủ tức nhiên Tân Nội Các toàn quốc lại thấu đáo điều ấy, nên khi Bần Ðạo ở Sài Thành, chính mình Thủ Tướng Xuân đến nhà Bảo Sanh Quân cầu Bần Ðạo xin hành lễ khẩn nguyện Ðức Chí Tôn ban ân lành cho quốc dân Việt Nam.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
保 精
Bảo: Giữ gìn. Tinh: Một chất nước rất tinh anh của nhục thể. Nhờ có tinh, con người mới có sức lực, tạo ra nòi giống, và nhứt là người tu nếu biết bảo tinh thì có thể tạo ra đệ nhị xác thân hay tượng hình Linh thể đắc Đạo.
Bảo tinh là giữ gìn chất tinh, một chất dùng để nuôi dưỡng sức khỏe và tinh thần của con người. Do đó, người xưa coi việc bế tinh, gìn giữ chất tinh, không để cho hao phí chất tinh trong sắc dục.
Trong phép luyện đạo trong Tịnh thất, là luyện Tam bửu Tinh, Khí, Thần hiệp nhứt. Muốn luyện Tinh hoá Khí, luyện Khí, luyện Khí hiệp Thần, luyện Thần hườn Hư thì chúng ta trước tiên phải “Bào Tinh”.
Bảo tinh, dưỡng khí, tồn thần,
Theo đường trung Ðạo thoát thân luân-hồi.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
保 全
Bảo: Gìn giữ. Toàn: Nguyên vẹn.
Bảo toàn là giữ cho được nguyên vẹn, không để suy suyển, mất mát.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Nếu thế gian dữ thì thế nào đặng bảo toàn, còn mong mỏi gì đặng bền vững. Cá nhân dữ thì thế nào bảo toàn tánh mạng.
Nguyền Khổng Thánh bảo toàn Nho giáo,
Lấy nghĩa nhơn Đại Đạo truyền ra.
(Giới Tâm Kinh).
Phước Thiện để rước ngoại bang,
Phước Thiện sản nghiệp bảo toàn thế gian.
(Thất Nương Giáng Bút).
保 存
Bảo: Gìn giữ. Tồn: Còn.
Bảo tồn là gìn giữ cho còn.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn dạy: Ấy vậy, các con phải lưu tâm mà chấn hưng mối Ðạo, ấy là kế bảo tồn quốc tuý, lại là phương thoát tục.
Vẹn toàn đủ xác đủ hồn,
Xây cơ chuyển thế bảo tồn vạn linh.
(Kinh Tận Độ).
Phước Thiện nắm luật bảo tồn,
Phước Thiện để rước chơn hồn nguyên nhân.
(Thất Nương Giáng Bút).
保 存 歸 古
Bảo Tồn: Nguơn Bảo Tồn, còn gọi là nguơn Tái Tạo. Quy cổ: Trở về như đời Thượng cổ.
Vào thời Hạ nguơn, sự tranh đấu càng ngày càng ác liệt, khiến nhơn loại chịu nạn tiêu diệt hầu kề, nên còn gọi là Nguơn điêu tàn.
Nhưng hễ loạn tới trị, do vậy Nguơn tiêu diệt sẽ bước sang Nguơn Bảo Tồn là Nguơn đạo đức phục hưng, để trở lại như đời Thượng cổ, đó gọi là Bảo Tồn quy cổ.
Hạ nguơn nay đã mãn rồi,
Bảo tồn quy cổ cơ trời chuyển luân.
(Thơ Thông Quang).
保 存 衆 生
Bảo tồn: Giữ cho còn. Chúng sanh: Tất cả các loài vật có sự sống
Bảo tồn chúng sanh, đồng nghĩa vớt “Bảo tồn vạn linh”, là giữ gìn cho còn mạng sống của muôn sinh linh (chúng sanh) trong Càn khôn Vũ trụ.
Mạng sống của vạn linh được Thánh giáo dạy như sau: Chi chi hữu sanh cũng do bởi Chơn Linh Thầy mà ra. Hễ có sống ắt có Thầy. Thầy là Cha của sự sống. Vì vậy mà lòng háo sanh của Thầy không cùng tận.
Cái sống của cả chúng sanh, Thầy phân phát khắp Càn khôn Thế giới, chẳng khác nào như một nhành hoa trong cội, nó phải đủ ngày giờ Thầy nhứt định mới trổ bông và sanh trái đặng trồng nữa, biến hoá ra thêm. Nếu như ai bẻ hoa ấy nửa chừng thì là sát một kiếp sanh không cho biến hoá.
Vì lòng háo sanh nên Thánh chất của Chí Tôn là Bảo sanh, tức là có sự thương yêu để bảo toàn sự sống của chúng sanh. Thánh giáo dạy: “Sự thương yêu là giềng Bảo sanh của Càn khôn Thế giới. Có thương yêu nhơn loại mới hoà bình, Càn khôn mới an tịnh. Đặng an tịnh mới không thù nghịch lẫn nhau, mới giữ bền cơ sanh hoá”.
Chơn thần đã nhập Càn khôn,
Thâu quyền độ thế bảo tồn chúng sanh.
(Kinh Tận Độ).
保 存 萬 靈
Bảo tồn: Giữ cho còn. Vạn linh: Muôn sanh linh, tất cả các chơn linh trong Càn khôn Vũ trụ gồm đủ bát hồn.
Bảo tồn vạn linh là giữ gìn cho còn mạng sống của muôn sinh linh trong Càn khôn Vũ trụ.
Xem: Bảo tồn chúng sanh.
Vẹn toàn đủ xác đủ hồn,
Xây cơ chuyển thế bảo tồn vạn linh.
(Kinh Tận Độ).
保 世
Hay “Bảo Thế Chơn Quân”.
Bảo Thế là một phẩm chức sắc trong Thập Nhị Thời Quân, thuộc chi Thế Hiệp Thiên Đài, dưới quyền trực tiếp của Đức Thượng Sanh.
Bảo Thế Chơn Quân 保 世 真 君 là một vị chức sắc Đại Thiên phong thuộc chi Thế Hiệp Thiên Đài được Đức Chí Tôn phong cho Ngài Lê Thiện Phước.
Theo Hiến pháp Hiệp Thiên Đài, Bảo Thế là người có trách nhiệm bảo tồn luật Thế, bảo hộ những điều cần ích cho Đạo đã ra mặt luật. Ngoài ra, Pháp Chánh Truyền chú giải cũng có quy định: Khi tiếp nhận giấy tờ do Hiến Thế dâng lên, Bảo Thế phải gìn giữ bí mật, kín nhiệm, rồi chiếu y Đạo luật và Thê luật mà làm tờ buộc án, kế dâng lên Thượng Sanh đặng Người đến Toà Tam Giáo Cửu Trùng Đài, Hiệp Thiên Đài hay Bát Quái Đài mà buộc tội.
Bảo Thế là Đầu Phòng Văn của Thượng Sanh.
Đạo phục của Ngài Bảo Thế Chơn Quân theo Pháp Chánh Truyền quy định gồm có hai bộ:
Bộ Đại phục toàn hàng trắng, cổ trịch, viền kim tuyến bạc, đầu đội mão Nhựt Nguyệt mạo màu trắng, lưng đeo dây sắc lịnh, thả mối bên hong trái (thuộc chi Thế), chân đi giầy vô ưu trắng.
Bộ Tiểu phục cũng toàn hàng trắng, lưng mang dây sắc lịnh y như Đại phục, đầu đội Hỗn Nguơn mạo, trên mão có để cổ pháp Thượng Sanh (Thư Hùng Kiếm, Phất chủ), chân đi giầy vô ưu màu trắng.
Bảo Thế Hiệp Thiên Đài được Đức Chí Tôn phong cho Ngài Lê Thiện Phước trong đàn cơ ngày 12 tháng 01 năm Đinh Mão (Dl. 13-2 1927) tại chùa Gò Kén.
Ngài Bảo Thế sinh ngày 4 tháng 6 năm 1985 (Ất Mùi) tại Sài Gòn. Thân phụ là Lê Văn Dương, giám đốc trường Tiểu Học Dakao, thân mẫu là Trần Thị Chọn đã nhập môn vào Đạo Cao Đài.
Năm 1912, Ngài đậu bằng Thành Chung trường Chasseloup Laubat tại Sài Gòn. Năm 1915, tốt nghiệp trường luật Đông Dương, sau đó đậu vào ngạch Thơ Ký Thượng Thơ (Dinh Hiệp Lý Sài Gòn) đời Pháp Thuộc.
Năm 1927 nghỉ làm việc cho nhà nước, ra giúp xã hội, đắc cử Hộ Trưởng Quận Tân Định và Hoà Hưng. Năm 1944, làm Huyện danh dự, rồi làm chủ hai nhà máy xay gạo ở Dakao và Chợ Lớn.
Bảo Thế được Đức Chí Tôn giáng cơ tại nhà Ngài Thái Thơ Thanh, ban cho một bài thi khuyên lo tu hành, Ngài nhập môn và Thượng Tượng có mời các Đức Quyền Giáo Tông, Đức Cao Thượng Phẩm và Đức Hộ Pháp đến dự. Cho đến năm 1946, Đức Ngài mới chánh thức trọn phế đời hành Đạo.
Đức Hộ Pháp vừa rời hải đảo Madagascar trở về Việt Nam, liền tái thủ quyền hành, giao Ngài Bảo Thế trách vụ “Thừa quyền Hộ Pháp”, sau đó ngày 21 tháng 01 năm 1950, nhận chức vụ “Tổng Thư Ký Chánh Trị Đạo”. Do Thánh lịnh ngày 01 tháng 9 năm Ất Mùi, 1955, Ngài đại diện chi Thế, đứng trong Tam Đầu Chế Hiệp Thiên Đài. Đến năm 1956, Ngài Đại diện Hội Thánh lập Thoả Ước năm Bính Thân.
Ngài Bảo Thế lúc về già bị bịnh bán thân, sức khoẻ yếu dần, rồi đăng Tiên vào lúc 6 giờ 30 phút sáng ngày 17 tháng 3 năm Ất Mão (Dl. 27- 4-1975) hưởng thọ 81 tuổi.
Bảo trọng vạn linh hiệp chí linh,
Thế nguy chuyển loạn lập hoà bình.
Cứu đời mở đạo kinh luân sẵn,
Nước Việt trong chờ sách cứu tinh.
(Bài Thài Bảo Thế).
保 體
Bảo: Bảo hộ, giữ gìn. Thể: Hình thể.
Bảo Thể, còn gọi là Bảo Thể Quân, là bảo vệ, che chở Thánh thể Đức Chí Tôn tại thế, tức là che chở cho toàn Hội Thánh.
Trong Nội ô Toà Thánh, nếu Thánh Vệ giữ gìn trật tự an ninh ngoài đường phố của Nội ô thì Bảo Thể gìn giữ trật tự trong các Dinh thự, các cơ quan hành chánh, cùng các buổi cúng đàn trong Đền Thánh.
Cơ Bảo Thể (Cơ Quan Bảo Thể) và Cơ Thánh Vệ được đặt dưới quyền Thống Quản của Hộ Đàn Pháp Quân.
Khi cúng Đức Chí Tôn, Bảo Thể Quân mặc áo trường y sáu nút, lưng buộc dây thắt lưng trắng, tay mang Tam Sắc Đạo, đầu đội mão giống như cái calot màu trắng, tay cầm cây Tam Thanh. Nếu là Chánh Bato Thể thì trên mão có cổ pháp của Hộ Pháp.
Chánh Bảo Thể có đủ năm năm công nghiệp và có đủ hạnh đức thì được cầu phong lên Lễ Sanh.
Còn Bảo Thể Quân (nhân viên Bảo Thể) thì đủ 10 năm công nghiệp và đủ hạnh đức cũng được cầu phong lên phẩm Lễ Sanh.
Hộ Đàn kiêm luôn Thánh Vệ và Bảo Thể vì hai cơ quan nầy chịu dưới quyền thống quản của Hộ Đàn.
(Thánh Giáo Hộ Pháp).
保 守
Bảo: Giữ gìn. Thủ: Giữ.
Bảo thủ là gìn giữ, hay cố giữ những cái sẵn có, ý không muốn thay đổi.
Thuyết Đạo của Đức Hộ Pháp có câu: Có công thì không phụ, có chánh thì không tà, không chối cái điều chơn thật được, còn có từ bi thì có khoan hồng dung thứ, có bác ái mới có thể bảo thủ và thân mến toàn thiên hạ...
Ấy phương bảo thủ thành trì,
Đường khai đã sẵn gắng đi cho cùng.
(Nhàn Âm Đạo Trưởng).
Lạc Hồng thuở dựng giang san,
Dày công bảo thủ bốn ngàn năm xưa.
(Mỹ Ngọc Thi Phổ).
保 守 真 傳
Bảo thủ: Gìn giữ. Chơn truyền: Những giáo pháp chơn thật để truyền lại cho người sau.
Bảo thủ Chơn Truyền là gìn giữ những giáo pháp chơn thật để truyền lại cho người sau.
Khi thuyết về Lễ Đăng Tiên của Hộ Pháp, Đức Thượng Sanh có câu: Biết tôn thờ Ðức Ngài, Biết ghi nhớ ơn của Ðức Ngài, chúng ta phải noi theo gương sáng của Ðức Ngài, cái gương nhẫn nại và vị tha, luôn luôn quên mình, sẳn sàng hy sinh để bảo thủ chơn truyền và giữ trọn hiếu trung đối với Ðức Chí Tôn Ðại Từ Phụ.
Thừa kế đại chí, bảo thủ chơn truyền, thật hành nhơn nghĩa, tế độ chúng sanh.
(Sớ Văn).
保 重
Bảo: Giữ gìn. Trọng: Xem nặng, quý trọng.
Bảo trọng là chủ ý giữ gìn và quý trọng thân thể hoặc danh giá của mình.
Trong quyển Đạo Sử của Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu, Diễn Văn Ðức Quyền Giáo Tông đọc tại Toà Thánh, ngày mùng 8 tháng 4 năm Giáp Tuất (1934) có câu: Phận sự bảo trọng lấy mình là dễ; còn phận sự bảo Ðạo vốn khó vô cùng.
Quyền năng của chơn linh không giới hạn, nó là quyền năng bảo trọng đường sống của vạn loại, của xác hình.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
保 文 法 君
Hay “Bảo Văn Quân”.
Bảo Văn Quân, tức là Bảo Văn Pháp Quân, một phẩm chức sắc trong Thập Nhị Bảo Quân của Hiệp Thiên Đài, có nhiệm vụ chỉnh đốn Lễ Nhạc trong đạo Cao Đài được hoàn toàn cho đến ngày thành Đạo.
Bảo Văn Pháp Quân là một trong mười hai vị chức sắc thuộc Thập Nhị Bảo Quân, do Đức Chí Tôn lập nên tạo thành Hàn Lâm Viện của đạo Cao Đài.
Theo Đức Hộ Pháp, Toàn thể Bảo Quân là Hàn Lâm Viện. Mỗi vị có sở thức sở năng, ấy là điều khác nhau đặc biệt, tỷ như Bảo Huyền Linh Quân, nghĩa là Thần linh hồn, khác với Bảo Học Quân thuộc về khoa học hay là thực tế học.
Như vậy, Hàn Lâm Viện Cao Đài là một cơ quan đặc biệt nằm ngoài Cửu Trùng Đài và Hiệp Thiên Đài, gồm mười hai Viện sĩ gọi là Thập Nhị Bảo Quân, mỗi vị chuyên môn một ngành, được kể theo Lời Phê Đức Hộ Pháp như sau:
|
1.- Bảo Huyền Linh Quân. |
|
2.- Bảo Thiên Văn Quân. |
|
3.- Bảo Địa Lý Quân. |
|
4.- Bảo Học Quân. |
|
5.- Bảo Cô Quân. |
|
6.- Bảo Sanh Quân. |
|
7.- Bảo Phong Hoá Quân. |
|
8.- Bảo Văn Pháp Quân. |
|
9.- Bảo Y Quân. |
|
10.- Bảo Nông Quân. |
|
11.- Bảo Công Quân. |
|
12.- Bảo Thương Quân. |
Nhưng theo Ngài Khai Pháp, trong quyển Chánh Trị Đạo, thì vị Bảo Phong Hoá Quân được thế là Bảo Sĩ Quân.
Thập Nhị Bảo Quân dưới quyền chỉ huy của Giáo Tông và Hộ Pháp.
Bộ Đại phục của Bảo Văn Pháp Quân toàn bằng hàng trắng, đầu đội Nhựt Nguyệt Mạo, hai bên ngay chính giữa có kết một bông sen năm cánh, trên mỗi bông sen có thêu Thiên Nhãn, ngay đường giữa trước mão cũng kết một bông sen nhưng không thêu Thiên Nhãn, cả thảy ba bông sen trên mão. Lưng đai Bạch Tuyết Thần Quang bằng hàng trắng, buộc mối chừa ra trước thế nào đủ thắt một bông sen năm cánh. Chơn đi giầy Vô Ưu cũng bằng hàng trắng, trước mũi mỗi chiếc có một bông sen nhỏ.
Bạch Tuyết Thần Quang là một sợi dây bằng hàng trắng dài ba thước, ba tấc, ba phân (3m33) và bề ngang rộng ba tấc ba phân ba ly (0m333) dùng để vị Bảo Văn Pháp Quân làm đai lưng.
Khi đai dây Bạch tuyết thần quang phải buộc mối chừa ra trước thế nào đủ thắt một bông sen năm cánh.
Bảo Văn Pháp Quân được Đức Chí Tôn phong cho Ngài Cao Quỳnh Diêu trong một Đàn cơ năm 1930.
Cao Quỳnh Diêu hiệu là Mỹ Ngọc, Đạo hiệu là Cao Liên Tử, sinh năm Giáp Thân 1884 tại làng Hiệp Ninh, tổng Hàm Ninh Thượng, tỉnh Tây Ninh.
Thân phụ là Cao Quỳnh Tuân, làm Cai tổng Hàm Ninh Thượng, mất lúc Ngài Cao Quỳnh Diêu được 14 tuổi, thân mẫu là Bà Trịnh Thị Huệ, sau đắc phong Nữ Giáo Sư trong Đàn cơ phong Thánh Nữ phái lần I vào ngày 14 tháng 1 năm Đinh Mão (Dl. 15/2/1927).
Người em ruột thứ tư của Ngài Diêu là Cao Quỳnh Cư, sau đắc phong Thượng Phẩm Hiệp Thiên Đài, cầm quyền chi Đạo.
Hiền thê Ngài Cao Quỳnh Diêu là Bà Trần Thị Lựu, đắc phong Nữ Giáo Hữu trong kỳ phong Thánh Nữ phái lần I, và được Đức Chí Tôn trong Đàn cơ ngày 5 tháng 8 năm Bính Dần (Dl. 11/9/1926) giao cho nhiệm vụ cùng với Bà Nữ Giáo Sư Hương Hiếu (Hiền nội Ngài Cao Quỳnh Cư) tập một tốp đồng nhi gồm 36 đứa đặng tụng kinh khi cúng lễ.
Như chúng ta biết, Ngài Cao Quỳnh Diêu là một trong bốn vị tiền khai nền Đại Đạo. Chính Ngài cùng với quý vị Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang khởi sự xây bàn đầu tiên tại nhà Ngài Sang cạnh chợ Thái Bình dãy phố hàng Dừa Sài Gòn.
Từ đó, Ngài Cao Quỳnh Diêu hợp với Ngài Cao Hoài Sang thành một cặp phò loan để Đức Chí Tôn giáng cơ dạy Đạo. Đến tháng 5 năm 1926 Đức Chí Tôn lập thành sáu đàn cơ phổ độ, trong đó có Đàn cơ ở Chợ Lớn là nhà của Ngài Lê Văn Trung, do hai Ngài Cao Hoài Sang và Cao Quỳnh Diêu phò loan, còn Ngài Trung và Ngài Lê Bá Trang thay phiên nhau chứng đàn.
Theo lời dạy của Đức Chí Tôn, thân phụ của hai Ngài Diêu và Cư là Cao Quỳnh Tuân chính là Xuất Bộ Tinh Quân giáng trần, nên trong Đàn cơ ngày 6 tháng 8 năm Bính Dần (Dl. 12/9/1926) Xuất Bộ Tinh quân giáng cơ dạy như sau:
Mừng mấy con và mấy cháu,
Diêu! Từ đây thầy lấy làm vui mà thấy con đặng để bước vào đường Thánh đạo. Vậy hãy ráng tu hạnh hầu phục hồi cựu vị.
Thầy rất vui mà thấy Cư và con đã đem tấm nhiệt thành cứu độ nhơn sanh khỏi dòng khổ hải. Ấy cũng số phần rất may mắn của lịnh Ngọc Hoàng đã định cho con và Cư, Tắc, Sang.
Vậy thầy có mấy lời thiết yếu cùng con sau đây:
Cựu vị ngày xưa đã có rồi,
Ðường về chớ bỏ há con ôi!
Công trình chớ nệ xây nền Ðạo,
Phước mỏng đâu hay bởi tứ Trời.
Ðức trước hưởng rồi tua trả đức,
Ngôi sau gìn ắt đặng an ngôi.
Từ đây son sắt vì sanh chúng,
Cảnh tịnh mai sau cũng đặng ngồi.
Năm Đinh Mão, 1927, Ngài Cao Quỳnh Diêu đắc phong Tiếp Lễ Nhạc Quân, có phận sự sắp đặt Lễ nghi và âm nhạc trong việc cúng tế của đạo Cao Đài. Chính Ngài vâng lịnh Hội Thánh vào đầu năm 1929 đặt ra ba bài Dâng Tam Bửu (hoa, rượu, trà) hiện nay, được Bát Nương giáng cơ chỉnh văn lại.
Ngoài ra, Ngài Cao Quỳnh Diêu có soạn quyển “Nghi Tiết Đại Đàn Tiểu Đàn” dâng lên Đức Chí Tôn duyệt, Đức Hộ Pháp và Hội Thánh xem xét, rồi Đức Quyền Giáo Tông ban hành vào ngày 17 tháng 6 năm Canh Ngọ (1930) nhằm mục đích chỉnh đốn lễ nhạc trong các đàn cúng Đức Chí Tôn và các Đấng Thiêng Liêng cho được thống nhứt và trang nghiêm.
Đầu năm Canh Ngọ 1930, Ngài Cao Quỳnh Diêu được thăng lên phẩm Bảo Văn Pháp Quân. Đến năm 1932, Ngài viết bài Tán Tụng Công Đức Diêu Trì Kim Mẫu, được Bát Nương giáng cơ chỉnh văn lại để dùng làm kinh cúng Tứ Thời nơi Điện Thờ Phật Mẫu.
Vào năm Giáp Tuất (1934) nội bộ nền Đạo Cao Đài bị chia rẽ, hai Ngài Quyền Đầu Sư Thượng Tương Thanh (Nguyễn Ngọc Tương) và Quyền Đầu Sư Ngọc Trang Thanh (Lê Bá Trang) lập chi phái, tách rời khỏi Toà Thánh Tây Ninh lôi kéo theo một số chức sắc.
Ngài Bảo Văn Pháp Quân cũng bị Chi phái tác động, khiến Ngài phân vân, lưỡng ước, không biết theo ai. Nhờ Ðức Thái Thượng Ðạo Tổ giáng cơ ngày16 tháng 7 năm Giáp Tuất (Dl. 25/8/1934) trình bày điều hơn lẽ thiệt, khuyên Ngài ở lại mà phụng sự Ðạo nơi Toà Thánh Tây Ninh. Bài Thánh giáo của Đức Thái Thượng Đạo Tổ có đoạn như sau:
Nền Ðạo đã chia ba, theo lời Bần Ðạo đã nói, Mỹ Ngọc Hiền hữu muốn lập công nơi nào? Toà Thánh Trung Ương, Hậu Giang?
Mỹ Ngọc bạch: Nơi Toà Thánh.
Toà Thánh là gốc cội của Ðạo, nếu muốn lập công nơi đó, vì Thầy đã dạy, thì nên làm đi, cách xây đổi phương lược tùy cơ ứng biến, ấy là cơ nghiệp riêng của mỗi Ðạo hữu, Bần đạo không dám dạy, nếu chờ thì phải trễ chăng? Hiền hữu nên xét, Ðời khác Ðạo khác, những sự lỗi lầm của mình tạo khổ cho mình mà nguyên nhân vẫn cứ huyền bí, mắt thịt tâm phàm chưa dễ độ đặng, nên xét cho xa."
Ngài Bảo Văn Pháp Quân Cao Quỳnh Diêu ngoạ bịnh trong mấy ngày rồi đăng Tiên vào ngày 4 tháng 9 năm Mậu Tuất (Dl. 16/10/1958), tại Văn Phòng Trung Tông Đạo, trong Nội Ô Toà Thánh, hưởng thọ 75 tuổi.
Đàn cơ đêm 26 tháng 11 năm Mậu Tuất (Dl. 5/1/1959) tại Giáo Tông Đường, phò loan Thượng Sanh và Tiếp Pháp, Ngài Cao Quỳnh Diêu giáng dạy như sau:
Chào hai em Thượng Sanh, Tiếp Pháp và mấy em.
Cười... Tiếp Pháp! Bây giờ Bần đạo hết rệu rồi nghe không. Nhớ lại buổi trước còn nằm dầm tại Trung Tông thì chán quá! Đi, ở cũng là sự thường, đi rồi ngảnh lại thương mấy bạn còn ở phải chịu bao nhiêu nhọc nhằn tâm trí, nhưng đó là nhiệm vụ của mỗi bạn do Đức Chí Tôn sắp đặt. Bần đạo nhờ từ tâm của Phật Mẫu và Cửu vị Phật Nương Diêu Trì Cung, nên cũng đặng phần ân huệ thiêng liêng.
Hiện giờ Bần đạo hiệp với mấy bạn của chúng ta nơi thiêng liêng tiếp tục làm công quả phổ độ Á Châu. Bần đạo có mấy lời hiến chư quí bạn:
Đau khổ ném xong cái gánh trần,
Nhẹ nhàng mới toại chí thanh vân.
Đường mây vừa thoát tầm sông lệ,
Cánh hạc vui qua tận đảnh thần.
Công lớn chưa ghi trang sử Đạo,
Nghiệp hồng còn tiếp dựng nền nhân.
Giựt mình hối tiếc bao tâm sự,
Nhắn bạn trường tu gắng vẹn phần.
Thượng Sanh cùng cả mấy bạn, Bần đạo để lời cám ơn. Thôi, xin kiếu.
Nói về sự nghiệp của Ngài Bảo Văn Pháp Quân, Đức Thượng Sanh Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài có đoạn trong bài ai điếu như sau:
Ngài là một vị trong Chức sắc Hiệp Thiên Ðài mà buổi Ðạo mới khai, Ðức Chí Tôn và các Ðấng Thiêng liêng đã đến dìu dắt trước nhứt để giao phó sứ mạng thiêng liêng sử dụng cơ bút đặng độ nhơn sanh nhập vào cửa Ðại Ðạo.
Ðầu năm 1926, tức là năm Bính Dần, một lượt với chư vị Chức sắc cao cấp Hiệp Thiên Ðài, Ngài đắc lịnh nâng loan, hiệp với Ðức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt, lúc đương phẩm Ðầu Sư, và các vị Ðại Thiên phong Cửu Trùng Ðài đi phổ độ khắp các tỉnh, nhứt là các tỉnh trung ương và miền Tây Nam Việt.
Mặc dầu còn giúp việc cho một hãng tư, Ngài không nệ cực nhọc gắng làm tròn nhiệm vụ trong hai năm Bính Dần và Ðinh Mão (1926 và 1927), là hai năm mà Ðức Chí Tôn cho huyền diệu cơ bút, thâu nhập môn gần một triệu tín đồ, đem lại cho nền Ðạo một thắng lợi vẻ vang về mặt tinh thần cũng như về mặt phổ thông Chơn đạo.
Ngài thọ phong Tiếp Lễ Nhạc Quân năm Ðinh Mão (1927), qua năm Kỷ Tỵ (1929) lối tháng 10, mặc dầu hưởng lương bổng trọng hậu, Ngài phế đời về Toà Thánh hiến thân lo Ðạo, giúp Hội Thánh sắp đặt nội bộ, nhứt là góp công trong việc nâng loan cho Ðức Chí Tôn và các Ðấng dạy truyền Ðạo lý.
Ðầu năm Canh Ngũ (1930), được đắc phẩm vị Bảo Văn Pháp Quân, Ngài cố tâm chấn chỉnh Lễ Nhạc, ra công dạy Nhạc cho ban Nhạc sĩ tại Toà Thánh, từ điệu nghệ cầm roi trống cho tới bài bản Âm nhạc.
Ðến cuối năm Canh Ngũ (1930), Ngài rủi bị nạn hỏa tai, cả nhà cửa sự nghiệp bị thiêu hủy, nên vì sinh kế Ngài trở về Phú Nhuận (Gia Ðịnh).
Kể một thời gian qua, Ngài hiệp với mấy bạn Thập nhị Thời quân Hiệp Thiên Ðài để gầy dựng cơ quan tái lập tại Thánh Thất Từ Vân nơi Phú Nhuận, lo chú giải Tân Luật, Pháp Chánh Truyền và lập Luật điều phụ thuộc, để sau nầy giúp cho Chức sắc dễ thi hành phận sự.
Mãi đến năm Canh Dần (1950), Ngài trở về Toà Thánh, quyết lòng cộng tác với Chức sắc cao cấp Hiệp Thiên Ðài lo làm phận sự.
Nhưng từ ấy đến sau, vì tuổi cao sức yếu, Ngài không thể đảm đương nhiệm vụ chung lo với Hội Thánh, hơn nữa Ngài đã phế cả sự nghiệp vì chủ nghĩa của Ðạo và bởi đó, Ngài chịu lắm vất vả về vật chất, xác thân càng tiều tụy hao mòn.
Vừa rồi Ngài ngọa bịnh không mấy ngày, bỗng phút vĩnh biệt cố thân, xa miền dương thế.
Thuở sinh tiền Ngài Bảo Văn Pháp Quân, có bút hiệu Mỹ Ngọc, Đạo hiệu Cao Liên Tử, là một thi sĩ danh tiếng trong thời bấy giờ. Ngài có sáng tác rất nhiều bài thơ và kết thành “Mỹ Ngọc Thi Phổ”.
1.- Bảo Văn Pháp Quân:
Ngài Bảo Văn Pháp Quân sanh trưởng tại làng Hiệp Ninh, Tổng Hàm Ninh Thượng thuộc tỉnh Tây Ninh.
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
2.- Bảo Văn Quân:
Lòng thành ai điếu Bảo Văn Quân,
Sanh tử chẳng qua cũng một lần.
(Thơ Hiến Pháp).
1.- Bão là gió xoáy trong phạm vi rộng, có sức phá hoại dữ dội do gió lớn mưa to. Như: Phong ba bão táp.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Trước cảnh máu xương chồng chất gây nên bởi chiến cuộc, trước cảnh chiếu đất màn trời, của mấy trăm nạn nhân bão lụt miền Trung đang vất vả khóc than, vì đói rách cơ hàn, chúng ta những người đã xả thân cầu đạo, có vui sướng gì mà hỉ hạ chơi Xuân, hoang phí đồng tiền để làm khách phong lưu trong buổi trà dư tửu hậu.
Trong ngày mười tám vẫn an khương,
Tối lại bão to rất lạ thường.
(Thơ Thái Đến Thanh).
Bão tới, sao đưa về lũ lụt?
Nắng thiêu, nở héo hết cây mầm!
(Thơ Thanh Hương).
2.- Bão 飽 là no, không đói.
Như: Bão noãn (no ấm), bão mãn (đầy đủ), cư bất cầu an thực bất cầu bão.
Nhưng chưa nghèo phải học nghèo, chưa khổ phải học khổ, kế chí quân tử, cư bất cầu an, thực bất cầu bão...
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
Bão: Cơn gió to thổi. Bùng: Bốc, phát lên mạnh.
Bão bùng là bão lớn bốc lên mãnh liệt và dữ dội.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có đoạn: Ngày nay về đảm đương việc Ðạo, chúng tôi quyết tôn trọng tinh thần tập thể, nghĩa là sẽ chung trí mà lái con thuyền Ðạo giữa cơn sóng gió bão bùng. Phàm một sắc lịnh hay một quyết nghị nào sẽ đem ra ban hành là khi đã được phần đông chức sắc Hiệp Thiên Ðài chấp thuận.
Phú quý ấy là nơi Thiên định,
Bão bùng hết lúc đến hồi an.
(Đạo Sử).
Chờ cho nước lặng đến chơn,
Chơn mau khó thoát mấy cơn bão bùng.
(Nhàn Âm Đạo Trưởng).
Bão: Cơn gió to thổi. Tố: Cơn dông.
Bão tố, đồng nghĩa với chữ “Bão táp”, là nói một cơn bão lớn, dữ dội, thường dùng để ví với cảnh gian nan đầy thử thách, hoặc việc xảy ra dữ dội, mãnh liệt. Như nói: Cuộc đời đầy bão tố.
Thánh giáo Đức Diêu Trì Kim Mẫu có dạy trong Thánh Ngôn Sưu Tập như sau: Mẹ mừng đến nỗi rơi nước mắt, vì thấy các con hãy còn trong vòng cương toả của thế tình. Tuy nhiên nhờ tánh đức của các con đã rèn luyện bấy lâu nên cũng lướt qua nhiều bão tố.
Đảnh Việt chờ qua cơn bão tố,
Muôn năm tỏ rạng mối chơn truyền.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Cơn bão tố thuyền con thủ phận,
Để chờ cơn tan trận phong ba.
(Lục Nương Giáng Bút).
Đảnh Việt chờ qua cơn bão tố,
Muôn năm tỏ rạng mối chơn truyền.
(Thượng Phẩm Giáng Bút).
暴
1.- Bạo là không nhút nhát, không sợ hãi. Như: Bạo ăn, bạo nói, bạo gan, bạo tính.
Thánh giáo Thầy trong Đạo Sử có dạy: Các con cũng nên bạo gan mà nói trước mặt Vạn Quốc cùng Chánh Phủ rằng: Các con là người Ðạo biết giúp đỡ nhơn sanh, dạy dỗ nhơn sanh, chớ chẳng biết chánh trị là gì?
Ðường đạo vững bền, chớ nên bạo tính mà cũng chẳng nên giải đãi bần dùn, gắng công trì chí, liệu chừng với nhau mà vẹt cho sạch mấy lối chông gai để cho dễ bước đường sau tấn bộ.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
2.- Bạo là hung dữ, không kể gì đến nhơn nghĩa, đạo đức. Như: Hung tàn bạo ngược, bạo thiên nghịch địa.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thầy có dạy: hoạ Âu tai Á sẽ vì Thiên điều mà phạt kẻ bạo tàn tội lỗi.
Trói người vào đó xát chà,
Vì chưng hung bạo đốt nhà bắn săn.
(Kinh Sám Hối).
Chê tà trừ bạo lẽ như nhiên,
Song lưỡi gươm chưa sánh dạ hiền.
(Đạo Sử).
暴 行
Bạo: Hung tợn. Hành: Việc làm, hành động.
Bạo hành là dùng lối hung dữ và ngang ngược trong khi hành động.
Như: Kẻ tham quan mới bạo hành với người dân.
Vui chánh nghĩa vui hoài không thẹn,
Vui bạo hành là kẻ dã tâm.
(Bát Nương Giáng Bút).
Gây trường náo loạn kinh hồn,
Đế quyền xúi giục du côn bạo hành.
(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).
暴 虐
Bạo: Hung tợn. Ngược: Ngang ngược, độc ác.
Bạo ngược là tàn bạo ngang ngược, tức kẻ hung tợn độc ác.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Bởi vì đời quá hung tàn bạo ngược vô nhơn luân, tinh thần đạo đức không quy định, tâm lý loài người không tương quan cùng nhau, mất cả luật đồng sanh làm căn bản của loài người, luật đồng sanh gần như bị huỷ bỏ.
Hiền ngõ rủi sanh đời bạo ngược,
Dầu trong Thánh đức cũng ra thường.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Đừng học thói của quân bạo ngược,
Xử mẹ cha tội phước quá hơn toà.
(Phương Tu Đại Đạo).
暴 殘
Bạo: Hung dữ, dữ dội. Tàn: Ác, xấu lắm.
Bạo tàn, như chữ “Tàn bạo 殘 暴”, là độc ác, hung bạo, tàn ngược.
Thánh giáo Thầy có câu: Còn có một hạng người cũng có tánh thiêng liêng ấy, nhưng lại không để trí khôn vào lối cao thượng, mà cứ quen thói hung hăng, nghĩ những việc bạo tàn, làm điều tội lỗi, ấy là những kẻ nghịch Thiên, không biết luân hồi là chi cả.
Lấy chí Thánh dìu đời giác ngộ,
Dụng bạo tàn đâu phải chỗ an bang.
(Nhàn Âm Đạo Trưởng).
Sâu dân mọt nước bạo tàn,
Mua quan bán chức nhộn nhàng cân đai.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Người hiền cứu sống theo phò chúa,
Kẻ dữ bạo tàn xác quạ tha.
(Thơ Hộ Pháp).
暴 秦
Bạo: Hung dữ ngược ngạo. Tần: Nhà Tần.
Bạo Tần chỉ nhà Tần bạo ngược, đốt sách chôn Nho, bắt dân xây Vạn Lý Trường Thành, khiến lòng người không phục, đó là dọn đường cho Lưu Bang lập nên nhà Hán sau nầy.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Luận xa hơn nữa, thiên hạ tưởng cái võ lực của họ là hơn hết, nếu võ lực quả nhiên bảo thủ cái sống của họ còn tồn tại, thì Sở Bá Vương kia, nào bạo Tần nọ, hỏi cái nghiệp của họ còn bền bỉ hay chăng, nếu không có thượng cờ nhơn nghĩa thì cái nghiệp Hớn không còn tồn tại tới 800 năm, không có thượng cờ nhân nghĩa thì nhà Châu chưa hề cướp đặng cái Đế vị của nhà Trụ.
Các con, nền Ðạo bề ngoài coi diềm dà sung túc, mà chẳng thấy rõ cái mạch bịnh trong tâm, chẳng khác chi thế Sở chế bạo Tần,...
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
1.- Bát là thứ đồ làm bằng sành, sứ hay gỗ, dùng để chứa đựng các thức ăn uống hoặc các thức khác.
Như: Chén bát, bát đĩa, bình bát vu, bát nước trà.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Cơ hội ngàn năm một thuở, ví như Ðấng Chí Tôn không khai mối Ðạo Trời, cái đà sống của mỗi người chúng ta trong thời loạn là cần cù mưa nắng vì manh áo bát cơm, nay di cư chỗ nầy, mai đổi dời chỗ khác, phải chịu cảnh lầu Tần quán Sở, cay đắng trăm bề, trong lúc loạn ly thì vàng thau chung chạ, ngọc đá bất phân, ngoài ra còn bận bịu gánh thê nhi, não nề tình ấm lạnh, rồi đến khi Thiên số nan đào, thân cát bụi không còn để lại một dấu vết chi cho người đời nhắc nhỡ.
Thương đồng loại cũng hơn thí bạc,
Thấy trên đường miểng bát, miểng chai.
(Kinh Sám Hối).
Gái nồi cơm bát nước đói no,
Trai thang thuốc ngày lo an vấn.
(Phương Tu Đại Đạo).
2.- Bát 八 là tám, con số đếm đứng trước số chín và sau số bảy.
Như: Bát quái đồ thư, bát phẩm chơn hồn,thuyền bát nhã, bát trận đồ.
Xa trông cảnh vật đã xây tròn,
Bát hướng Ðài ngừng thấy nước non.
(Thiên Thai Kiến Diện).
八 音
Bát: Tám, con số đếm đứng trước số chín và sau số bảy. Âm: Âm thanh, tiếng.
Bát âm là tám loại âm thanh.
Trong âm nhạc, người ta chia ra tám thứ tiếng:
|
1.-Bào: Tiếng sênh. |
|
2.-Thổ: Tiếng trống đất. |
|
3.-Cách: Tiếng trống da. |
|
4.-Mộc: Tiếng mõ gỗ. |
|
5.-Thạch: Tiếng khánh đá. |
|
6.-Kim: Tiếng chuông đồng. |
|
7.-Ty: Tiếng dây đàn. |
|
8.-Trúc: Tiếng ống sáo tre. |
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Bởi cớ nên dùng đến những vật bát âm, nó đã chết đi rồi như cái trống chẳng hạn, tấm da trâu ấy đã chết, mà với sự khôn ngoan loài người mà nó có tiếng kêu được, tức là làm cho nó sống lại được,
Nghĩa bóng: Chỉ chung về âm nhạc.
Nơi Á Ðông có câu: “Biều, thổ, cách, mộc, thạch, kim, dữ tư trước, nãi bát âm”.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
八 寶
Bát: Tám, số đếm. Bửu: Báu, bửu bối.
Bát bửu là tám món báu của Bát Tiên, tức là bửu bối của tám vị tu luyện thành Tiên ở núi Bồng Lai. Đó là:
|
1- Bầu của Lý Thiết Quả. |
|
2- Quạt của Hớn Chung Ly. |
|
3- Gươm của Lữ Đồng Tân. |
|
4- Sanh của Tào Quốc Cựu. |
|
5- Hoa Lam của Lâm Thái Hoà. |
|
6- Ống Tiêu của Hàn Tương Tử. |
|
7- Gậy của Trương Quả Lão. |
|
8- Bông Sen của Hà Tiên Cô. |
Nơi Toà Thánh Tây Ninh của Đạo Cao Đài, có đặt hai dàn Bát bửu ở hai bên song song và đối xứng nhau trước Chánh Điện thờ Đức Chí Tôn.
Bát bửu còn ai chẳng quý mà,
Nương đời dạy Đạo lắm công ta.
(Bát Nương Giáng Bút).
Kìa trước Điện hai hàng Bát bửu,
Đã phô bày tả hữu hiển nhiên.
(Lược Thuật Toà Thánh).
八 寶 囊
Bát bửu: Tám món báu. Nang: Cái túi.
Bát bửu nang là cái túi đựng tám món báu. Tám món báu ấy là: Hiếu, đễ, trung, tín, lễ nghĩa, liêm, sỉ.
Theo Ngọc Lộ Kim Bàn, Đức Phật Mẫu lấy ra trong hộp Cửu Hoàn ở trước đài Thất Bửu một cái túi đựng tám món báu là: Hiếu, đễ, trung, tín, lễ nghĩa, liêm, sỉ, rồi dặn các chơn linh xuống thế phải giữ gìn tám món báu đó. Nếu bỏ mất món nào thì khó trở về ngồi toà sen được.
Luyện thần kết tụ Tam huê đảnh,
Ngộ đạo thực hành Bát bửu nang.
(Thơ Huệ Phong),
八 境 宮
Bát Cảnh Cung là một toà cung điện nơi cõi Thiêng liêng có tám cảnh mà Đức Phật Mẫu dùng để vận chuyển bát hồn hoá thành chúng sanh.
Vì vậy, nơi Báo Ân Từ tạm thờ Đức Phật Mẫu, Đức Hộ Pháp cho chia ra làm tám căn, mỗi căn đều treo cờ trên một tấm bảng nhỏ có đề “Bát Cảnh Cung kỳ 八 境 宮 旗”, nghĩa là cờ Bát Cảnh Cung.
Bát Cảnh Cung quỳ xinh áo trắng,
Tam Quan Cửa mở lộng mây xanh.
(Thơ Hoàn Nguyên).
Bát Cảnh Cung, tầm phương bất tử,
Cửu Trùng Thiên, mở lối hằng sanh.
(Thơ Hàn Sinh).
Một sớm về thăm Bát Cảnh Cung,
Trước đền Phật Mẫu ngắm hoa tùng.
(Thơ Chơn Tâm).
Hay “Bát chánh”.
Bát chánh (chính): Tám thứ hoàn toàn, ngay thẳng, đúng với sự thật. Đạo: Con đường, tôn giáo.
Bát chính đạo 八 正 道 hay Bát chánh, là con đường của sự hành trì chân chánh, tức là tám phương tiện hành động đưa chúng sanh đến một đời sống an lạc, dẫn đến mọi giải thoát khổ đau.
Bát chánh đạo, còn gọi là “Bát Thánh đạo” thuộc nội dung của Đạo đế, tức phần thứ tư của Tứ Diệu Đế, gồm:
1. Chánh kiến: Thấy biết rõ sự thật khổ đau và con đường tu tập đạt đến an lạc hạnh phúc.
2. Chánh tư duy: Suy nghĩ đúng với chơn tánh của mọi sự vật.
3. Chánh ngữ: Nói lời chơn thật, không nói láo, nói ác, nói hai lưỡi, nói phù phiếm.
4. Chánh nghiệp: Hành động, việc làm không phạm giới, đúng với lẽ phải, có lợi ích cho mình, cho mọi người.
5. Chánh mạng: Nuôi sống sanh mạng bằng nghề nghiệp lương thiện, trong sạch, tránh làm các nghề như đồ tể, thợ săn...
6. Chánh tinh tấn: Siêng năng cố gắng kiên trì tu tập thân tâm, nên làm việc thiện, tránh làm ác.
7. Chánh niệm: Sống tỉnh thức, có ý thức về thân thể, cảm thọ, tâm hành...
8. Chánh định: Giữ tâm ý an trụ tĩnh lặng, tâm không tán loạn, lắng đọng mọi vọng tưởng.
Trong Bát chánh đạo có hai Pháp môn quan trọng hơn hết là: Chánh kiến và Chánh định.
(Giáo Lý).
八 道 議 定
Bát đạo: Tám điều trong tôn giáo. Nghị định: Lời quyết nghị trở thành luật.
Bát Đạo Nghị Định là tám nghị định quan trọng của Đức Lý Giáo Tông hiệp cùng Đức Hộ Pháp ký tên ban hành trong Đạo Cao Đài Tây Ninh, nhằm chỉnh đốn lại các cơ quan và cách hành Đạo.
Bát Đạo Nghị Định được xem như là Thiên điều, không bao giờ thay đổi, bởi vì nó do Giáo Tông và Hộ Pháp, tức là quyền Chí Tôn tại thế lập ra.
Bát Đạo Nghị Định được Lý Giáo Tông và Hộ Pháp lập ra vào hai thời kỳ:
- Ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (Dl. 22-11-1930), đàn cơ tại Cung Đạo Toà Thánh Tây Ninh, do Hộ Pháp, Bảo Văn Pháp Quân phò loan, Sĩ Tải Phạm Văn Ngọ từ hàn: Đức Lý Giáo Tông giáng cơ lập ra sáu Đạo Nghị Định, trong đó nhằm mục đích lập lại trật tự nền Đạo, phân quyền cho các phẩm chức sắc, đưa Đầu Sư Thượng Trung Nhựt lên làm Quyền Giáo Tông tại thế và giao cho Đức Hộ Pháp chú giải Pháp Chánh Truyền.
- Ngày 16 tháng 7 năm Giáp Tuất (Dl. 25-8-1934), đàn cơ tại Cung Đạo Toà Thánh, do Hộ Pháp, Tiếp Đạo phò loan, có Đức Thượng Phẩm trợ điển, Đức Lý Giáo Tông giáng cơ lập thêm hai Đạo Nghị Định số 7 và số 8. Trong đó Đạo Nghị Định số 8 là quan trọng nhứt. Đạo Nghị Định số 8 nhằm mục đích tiêu diệt và ngăn ngừa các chi phái lồng vào nội bộ của Đạo.
Bần Đạo chưa ngó thấy Đức Lý ra Bát Đạo Nghị Định mà Ngài lập trọn vẹn hết, chúng ta cũng nên tôn sùng đáng kính, đáng sợ quá đổi Đấng cứu Đạo như thế, Bần Đạo cũng khen kính Người ấy cho đến ngày tận thế.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
八 魂
Hay “Bát phẩm chơn hồn”.
Bát phẩm: Tám phẩm cấp. Chơn (chân) hồn: Linh hồn hay chơn linh.
Bát hồn hay “Bát phẩm chân hồn 八 品 真 魂”, là tám đẳng cấp tiến hoá của linh hồn.
Theo Phật Mẫu Chơn Kinh, tất cả các chơn linh trong Càn khôn vạn vật được chia thành tám bực tuỳ theo sự tiến hoá cao thấp khác nhau. Thấp nhứt là Kim thạch hồn là loài kim loài đá; kế là Thảo mộc hồn là loài cây cối; Thú cầm hồn là loài chim thú; Nhơn hồn là con người, Thần hồn, Thánh hồn, Tiên hồn, Phật hồn.
Tám đẳng cấp chơn hồn này được gọi là bát phẩm chơn hồn, theo Đức Hộ Pháp là do trong Kim Bàn của Phật Mẫu mà hoá sanh ra, được gọi chung là vạn linh hay chúng sanh.
Tám phẩm chơn hồn này được Đức Phật Mẫu cho đầu kiếp xuống trần, phải tu hành nhiều kiếp để tiến hoá lên, từ phẩm nầy lên phẩm kia, cho đến nhơn hồn, rồi nhơn hồn vẫn tiếp tục tu mãi để lên đến hàng Thần, Thánh, Tiên, và Phật hồn.
1.- Bát hồn:
Vùng thoại khí bát hồn vận chuyển,
Tạo Hoá Thiên sanh biến vô cùng.
(Kinh Tận Độ).
2.- Bát phẩm chơn hồn:
Cứu nguy độ khổ là thường,
Vì rằng bát phẩm chơn hồn Mụ sanh.
(Diêu Trì Kim Mẫu).
八 魂 樂 器
Bát hồn: Tám loại hồn do bát âm vận chuyển. Nhạc khí: Dụng cụ âm nhạc.
Bát hồn nhạc khí tức là những dụng cụ âm nhạc dùng đến âm thanh của tám loại, gọi là Bát âm: Bào (tiếng sênh, kèn), thổ (tiếng trống đất), cách (tiếng trống da), mộc (tiếng mõ cây), thạch (tiếng khánh đá), kim (tiếng chuông), ty (tiếng dây tơ), trúc (tiếng sáo tre).
Tám loại vật đó đã chết đi rồi, ví như cái trống, tấm da trâu của mặt trống đã khô chết, đánh lên cho nó kêu, như cái mộc, cây đã khô cứng, gõ cho nó kêu, tức làm cho nó sống lại được, nghĩa là Bát hồn ấy vận chuyển sống lại mà đảnh lễ Đức Chí Tôn trong lễ “Nhạc Tấu Huân Thiên”.
Xem: Nhạc Tấu Huân Thiên.
Cửu phẩm liên hoa tu đạt vị,
Bát hồn nhạc khí tấu huân Thiên.
(Thơ Huệ Phong).
八 魂 運 轉
Bát hồn: Hay còn gọi là Bát phẩm chơn hồn 八 品 真 魂 do Đức Phật Mẫu tạo hoá ra. Đó là Kim thạch hồn, Thảo mộc hồn, Thú cầm hồn, Nhơn hồn, Thần hồn, Thánh hồn, Tiên hồn, Phật hồn. Vận chuyển: Dời động một vòng xoay.
Bát hồn vận chuyển là tám phẩm chơn hồn được Đức Phật Mẫu tạo ra và cho đầu kiếp xuống trần tạo thành chúng sanh để tiến hoá.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Bởi cớ nên dùng đến những vật bát âm, nó đã chết đi rồi như cái trống chẳng hạn, tấm da trâu ấy đã chết, mà với sự khôn ngoan loài người mà nó có tiếng kêu được, tức là làm cho nó sống lại được, nghĩa là Bát Hồn ấy vận chuyển sống lại mà đảnh lễ Ðức Chí Tôn, vì cớ nên khi nghe Nhạc Tấu Huân Thiên là có âm thinh sắc tướng, song hiểu xác lý: Khi dâng lễ Chí Tôn quy pháp định, thấy và nghe cả Bát Hồn vận chuyển dâng cái sống cho Ngài.
Càn Khôn sản xuất hữu hình,
Bát hồn vận chuyển hoá thành chúng sinh.
(Phật Mẫu Chơn Kinh).
Vùng thoại khí bát hồn vận chuyển,
Tạo Hoá Thiên sanh biến vô cùng.
(Kinh Tận Độ).
八 娘 瑤 池 宮
Hay “Bát Nương”.
Bát Nương, hay Bát Nương Diêu Trì Cung là vị Tiên Nương đứng vào hàng thứ tám trong Cửu Vị Tiên Nương hay Cửu Vị Nữ Phật.
Nơi Chánh Điện thờ tại Báo Ân Từ, Bát Nương mặc áo màu vàng, ngồi bên mặt Đức Phật Mẫu, tay cầm bửu pháp là Giỏ Hoa Lam.
Bát Nương có nhiệm vụ tiếp rước các Chơn hồn lên tầng Phi Tưởng Thiên, là tầng Trời thứ tám của Cửu Trùng Thiên, rồi đưa Chơn hồn vào Cung Tận Thức, qua núi Phổ Đà nhờ Từ Hàng Bồ Tát cho cỡi Kim hẩu bay lên núi Tịch San để vào Cung Diệt Bửu.
Vào giữa năm Ất Sửu (1925), ba ông Cao Quỳnh Diêu, Phạm Công Tắc và Cao Hoài Sang họp nhau tại nhà ông Sang để mở cuộc xây bàn, Bà Thất Nương mượn danh là Đoàn Ngọc Quế giáng bàn cho thi, ba ông đều có làm thi hoạ lại. Sau đó, lối cuối tháng 7 năm Ất Sửu (1925) ba ông hỏi Bà Ðoàn Ngọc Quế rằng: Em còn có chị em nào nữa biết làm thi em mời giùm, nói ba anh em qua có lòng ngưỡng mộ học làm thi, xin cầu khẩn quý cô đến dạy ba anh em qua làm thi. Cô Ðoàn Ngọc Quế trả lời: Có chị Hớn Liên Bạch, Lục Nương, với Nhứt Nương làm thi hay lắm.
Cho đến ngày 5 tháng 7 năm Ất Sửu (Dl. 22/8/1925) ông Cao Hoài Sang ra đề: "Tiễn biệt tình lang", Bà Hớn Liên Bạch (tức Bát Nương) giáng làm bài thi như sau:
Chia gương căn dặn buổi trường đình,
Vàng đá trăm năm tạc tấm tình.
Bước rẽ ngùi trông cơn ác xế,
Lời trao buồn nhớ lối trăng thinh.
Ngày chờ mây áng ngàn dâu khuất,
Ðêm bặt đèn khuya một bóng nhìn.
Lần lựa cô phòng xuân thỏn mỏn,
Xa xuôi ai thấu nỗi đinh ninh.
Bà Hớn Liên Bạch tức là Bát Nương Diêu Trì Cung có một kiếp giáng trần vào thời Tiền Hớn tại Trung Hoa tên là Liên Bạch (hoa sen trắng), nên Bà thường giáng cơ xưng là Hớn Liên Bạch (tức hoa sen trắng đời Hớn).
Bài thài hiến lễ Bát Nương trong Lễ Hội Yến Diêu Trì Cung có từ “Hớn hoa sen trắng” (Hớn Liên Bạch):
Hồ Hớn Hoa Sen Trắng nở ngày,
Càng gần hơi đẹp lại càng say.
Trêu trăng hằng thói dấu mày,
Cợt mây tranh chức Phật đài thêm hoa.
Bà Bát Nương Diêu Trì Cung, cũng như Bà Thất Nương là người có công rất lớn trong việc dẫn dắt các vị tiền khai Đại Đạo như Hộ Pháp, Thượng Phẩm, Thượng Sanh và Đức Quyền Giáo Tông... cho nên trong bài Kinh Tán Tụng Công Đức Diêu Trì Kim Mẫu có hai câu khen tặng Bà như sau:
Bát Nương thật Đấng chí linh,
Cùng chung giáo hoá ân cần lo âu.
Bát Nương là một trong Cửu Vị Tiên Nương thường giáng cơ cho thi và văn để giáo hoá cho các môn đệ của Đức Chí Tôn, nhất là Nữ phái. Bà là vị Tiên Nương có tài văn chương xuất chúng, có thể nói Bà là một triết lý gia của Đạo Cao Đài, chính Bà đã giáng cơ cho bài “Phật Mẫu Chơn Kinh” do Đức Hộ Pháp và Tiếp Đạo phò loan tại Báo Ân Đường ở Nam Vang.
Có thể nói bài Phật Mẫu Chơn Kinh là một bài kinh rất quan trọng, gồm đủ mọi quan niệm: Quan niệm về Vũ trụ, quan niệm về nhân sinh, triết lý Tôn giáo, và con đường cứu rỗi của Cao Đài.
Ngoài những bài dạy về luân lý, đạo đức, có những bài Thánh giáo Bà dạy về vũ trụ quan hay nhân sinh quan của đạo Cao Đài rất nhiều, như bài dạy về Âm quang hoặc Luật Tam Thể mà Bà cùng với Cao Thượng Phẩm giáng cơ ban cho.
Bát Nương thật đấng chí linh,
Cùng chung giáo hoá ân cần lo âu.
(Tán Tụng Công Đức).
Cô Bát Nương Hoa Lam tay xách,
Nhiệm vụ còn độ khách hồng trần.
(Quang Cảnh Toà Thánh).
1.- Bát ngát là rộng lớn bao la không biết đâu là cùng, tầm mắt không sao bao quát hết được.
Như: Bốn bề bát ngát xa trông, đại dương bát ngát, cánh đồng bát ngát.
Xa nhà bát ngát lòng trông mãi,
Quạnh cảnh xơ rơ trí nghĩ nhiều.
(Thơ Thượng Sanh).
2.- Bát ngát cũng dùng để chỉ mùi hương lan toả rộng ra khaqwsp nơi.
Như: Nhang thơm toả khói bát ngát, hương hoa huệ bay bát ngát.
Bát ngát mùi hương thấu chín trùng,
Nương lằn bạch hạc viếng đàn trung.
(Bát Nương Giáng Bút).
Hương còn bát ngát chốn Nam giao,
Thoạt thấy phong ba vụt thổi ào.
(Thiên Thai Kiến Diện).
般 若
Bát nhã là tiếng của nhà Phật, dịch âm từ chữ Phạn Prajna, dùng để gọi trí huệ,
Trí Bát nhã được ví như con thuyền chở chúng sanh vượt qua biển luân hồi sinh tử sang đến bờ giác ngộ (Niết Bàn) giải thoát.
Xem: Thuyền Bát nhã.
Nam Mô Tam Giáo diệu huyền,
Tuyệt luân Bát Nhã đưa thuyền độ vong.
(Kinh Tận Độ).
Ngân Kiều Bát Nhã qua bờ,
Đưa duyên để bước kịp giờ siêu thăng.
(Kinh Thế Đạo).
Trương thẳng cánh con thuyền Bát nhã,
Cổi đau thương giải quả trừ khiên.
(Nữ Trung Tùng Phận).
八 卦
Bát: Tám. Quái: Quẻ, dấu hiệu trong dịch, bói toán.
Bát quái là tám quẻ.
Nguyên vua Thánh Phục Hy đời Thượng cổ, bắt chước theo Hà Đồ mà vạch ra tám quẻ gọi là Bát quái, gồm có: 1.- Càn, tượng cho trời. 2.- Khôn, tượng cho đất. 3.- Ly, tượng cho mặt trời. 4.- Khảm, tượng mặt trăng. 5.- Chấn, tượng cho sấm. 6.- Tốn, tượng cho gió. 7.- Cấn, tượng cho núi. 8.- Đoài, tượng cho chằm.
Trong đạo Cao Đài, Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: “Khi chưa có chi trong Càn khôn Thế giới thì Khí Hư Vô sanh ra có một Thầy và ngôi của Thầy là Thái Cực.
Thầy phân Thái Cực ra Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi phân ra Tứ Tượng, Tứ Tượng biến Bát Quái, Bát Quái biến hoá vô cùng mới lập ra Càn khôn Thế giới.”
Ở đây, Bát quái là từ nói tắt của “Bát Quái Đài”, nơi ngự của Đức Chí Tôn, Ngọc Hoàng Thượng Đế và chư Thần, Thánh, Tiên, Phật.
Xem: Bát Quái Đài.
1.- Chỉ Bát Quái Đài nơi cõi Thiêng Liêng:
Ba mươi sáu cõi Thiên Tào,
Nhập trong Bát Quái mới vào Ngọc Hư.
(Kinh Tận Độ).
Hay là hờn thế sự dại khôn,
Vào Bát Quái bảo tồn tri giác.
(Văn Tế Tiểu Tường).
2.- Chỉ Bát Quái Đài nơi Toà Thánh:
Cửu Trùng, Bát Quái, Hiệp Thiên,
Ba Đài hiệp một dưới quyền Chí Tôn.
(Lược Thuật Toà Thánh).
八 卦 臺
Bát Quái: Tám quẻ. Đài: Toà nhà cao.
Bát Quái Đài là một cái đài cao có tám cạnh đều nhau, nằm phía sau Toà Thánh, là nơi ngự của Đức Chí Tôn và chư Thần, Thánh, Tiên, Phật.
Đức Chí Tôn lập đạo Cao Đài với hình thể ba đài: Cửu Trùng Đài, Hiệp Thiên Đài và Bát Quái Đài.
Bát Quái Đài là phần vô hình thuộc về Đạo, tức là hồn của Đạo, do Đức Chí Tôn làm chủ lo phần siêu rỗi.
Tại Toà Thánh Tây Ninh, nơi Bát Quái Đài có đặt một Quả Càn Khôn hình cầu màu xanh da trời, có đường kính 3 thước 3 tấc, trên đó có khắc 3072 ngôi sao, tượng trung cho vũ trụ gồm Tam thiên thế giới và Thất thập nhị địa. Phía trước Quả Càn Khôn vẽ Thiên Nhãn trên ngôi sao Bắc Đẩu.
Dưới Quả Càn Khôn có đặt ba Long vị của Tam Vị Giáo Chủ: Thích Ca Mâu Ni ở giữa, Thái Thượng Đạo Tổ bên hữu (trong nhìn ra), Khổng Thánh Tiên Sư bên tả.
Hàng kế dưới có ba Long vị của Tam Trấn Oai Nghiêm: Lý Đại Tiên Trưởng ở giữa, Quan Âm Bồ Tát bên hữu, Quan Thánh Đế Quân bên tả.
Nhìn theo hàng dọc từ trên xuống, ở giữa Thích Ca Mâu Ni là Phật Đạo, Lý Đại Tiên Trưởng là Tiên Đạo, kế tiếp đặt Long vị Gia Tô Giáo Chủ là Thánh Đạo, dưới nữa Long vị Khương Thượng Tử Nha là Thần Đạo. Ngoài ra, còn thờ các Long vị Thánh Tử Đạo.
Bên trên nóc Bát Quái Đài có đắp tượng Tam Thế Phật là:
Brahma Phật đứng trên lưng Thiên nga, day mặt về Tây, tay mặt bắt ấn, tay trái cầm bửu châu.
Civa Phật đứng trên lưng giao long, mặt nhìn hướng Nam, tay mặt cầm kiếm chống xuống, tay trái chống nạnh.
Christna Phật đứng trên Thất đầu xà, mặt nhìn hướng Bắc, cầm ống sáo thổi.
Trên đây là Bát Quái Đài nơi Toà Thánh, còn Bát Quái Đài nơi cõi Thiêng liêng, được Đức Hộ Pháp cho biết trong Con Đường Thiêng Liêng Hằng Sống là có tám góc, rất huyền bí và biến hoá vô cùng. Trong tám góc ấy có tám cây cầu bắc bằng tám đạo hào quang, dưới cầu là dòng Bích Hải, nước xao sóng dợn.
Người tu đạt được Thiên vị thì vào Bát Quái Đài, còn nếu vì tội tình oan gia nghiệt chướng thì bị lọt xuống dòng Bích Hải.
Bát Quái Đài sững cao vòi vọi,
Nghinh Phong Đài chan chói huyền cơ.
(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).
Bát quái đài là hồn ý chỉ Bát quái đài nơi thờ Đức Chí Tôn biểu tượng cho linh hồn của Đạo.
Đức Chí Tôn khai Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ lần này không giáng trần, mà dùng huyền diệu cơ bút, nên Đạo Cao Đài chẳng có hình tướng Chí Tôn tại thế, chỉ mượn ba đài là Bát Quái Đài, Hiệp Thiên Đài và Cửu Trùng Đài của Đạo làm hình thể Chí Tôn.
Bát Quái Đài là hồn, Hiệp Thiên Đài là Chơn thần và Cửu Trùng Đài là xác thân của Đạo. Cả ba đài đó do chính Đức Chí Tôn làm chủ, và thể hiện sự giáng trần của Đức Chí Tôn trong thời Tam Kỳ Phổ Độ.
Bát Quái Đài là Hồn tinh khiết,
Hiệp Thiên Đài vốn thiệt Chơn Thần.
(Lược Thuật Toà Thánh).
八 卦 帽
Bát quái: Tám quẻ của Dịch. Mạo: Cái mão.
Bát Quái Mạo là một cái mão hình bát quái, có tám cạnh đều nhau, trong đó có thêu tám chữ Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài bằng chứ Hán. Mỗi cạnh của Bát Quái Mạo, phía đầu trên hình tròn và ngả ra ngoài.
Pháp Chánh Truyền quy định phẩm Đầu Sư, Chánh Phối Sư và Phối Sư Cửu Trùng Đài Nam phái đều đội Bát Quái Mạo khi hành lễ cúng Đức Chí Tôn. Màu sắc của Bát Quái Mạo tuỳ theo phái: Màu vàng phái Thái, màu xanh phái Thượng và màu đỏ phái Ngọc.
Đầu (Thái Đầu Sư) đội Bát Quái Mạo màu vàng, có thêu đủ tám cung chung quanh.
(Pháp Chánh Truyền CG).
八 仙
Bát: Tám. Tiên: Bậc Tiên.
Bát Tiên là tám vị Tiên tu luyện đắc đạo ở núi Bồng Lai, gồm có: 1- Lý Thiết Quả. 2-Hớn Chung Ly. 3-Lữ Đồng Tân. 4-Hàn Tương Tử. 5-Trương Quả Lão. 6-Lâm Thái Hoà. 7-Tào Quốc Cựu. 8-Hà Tiên Cô.
Trong Toà Thánh Tây Ninh, Đức Hộ Pháp dạy đắp hình Bát Tiên trên những đám mây lành ngũ sắc ở tấm diềm phía bên nữ phái của Bát Quái Đài.
Các Đấng Thiêng Liêng đã làm bạn với các sắc dân, nhứt là Huỳnh Tộc của chúng ta, tưởng cả thảy con cái Đức Chí Tôn đều biết danh giá của Bát Tiên là thế nào?
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
缽 盂
Bát: Cái bát đựng đồ ăn. Vu: Cái chén.
Bát vu là cái bình đựng đồ ăn và nước uống của các vị tăng ni phái khất sĩ bên Phật giáo.
Bình bát và chiếc áo Ca sa tượng trưng cho Phật pháp, cho nên các tông đồ bên Phật giáo vị nào được thầy truyền lại hai món báu nầy (Y và bát) tức là coi như làm tổ của tông phái đó: Bên Phật, gọi là truyền y bát.
Trong đạo Cao Đài, bình bát vu được tượng trưng cho Phật giáo.
Xuân Thu, Phất Chủ, Bát Vu,
Hiệp quy Tam Giáo hữu cầu chí chơn.
(Phật Mẫu Chơn Kinh).
Bát Vu hành khất bữa mơi chiều,
Nương tưởng mình to giống kẻ thiêu.
(Bát Nương Giáng bút).
1.- Bạt là tiếng Nôm, có nghĩa làm cho bị dạt đi một nơi khác.
Như: Chiếc thuyền bị sóng đánh bạt đi, mỗi người bị bạt đi mỗi nơi, chim trời bạt gió.
Thuyền sớm ra khơi quày lại bến,
Chim chiều bạt gió hướng về non.
(Thơ Thuần Đức).
2.- Bạt 拔 là nhổ lên, cất lên, rút ra.
Như: Bạt kiếm (rút gươm), đề bạt (chọn để đề cử lên), bạt tiến (cất nhắc lên).
Đại Thánh Địa Tạng Vương Bồ Tát,
Bố từ bi tế bạt vong hồn.
(Kinh Tận Độ).
拔 薦
Bạt: Cất lên, đề cử. Tiến: Giới thiệu dâng lên.
Bạt tiến là đề cử những chơn linh dâng lên các Đấng Thiêng liêng cứu giúp cho được siêu thăng tịnh độ.
Những tín đồ Cao Đài nhập môn rồi, mỗi tháng ăn chay không đủ 10 ngày, hoặc không gìn giới luật của đạo, hoặc bị sa ngã, hay những người chưa nhập môn cầu đạo, khi chết muốn hành theo nghi thức đạo thì Chức việc Bàn Trị Sự tại địa phương đến hành theo nghi “Bạt tiến”.
Khi hành nghi Bạt tiến thì:
Không đọc bài kinh Khi Đã Chết Rồi.
Không làm Phép xác và Phép Đoạn căn.
Không làm Tuần cửu và Tiểu, Đại tường.
Hành lễ Bạt tiến, không làm phép xác, tụng kinh cầu siêu...
(Quan Hôn Tang Lễ).
拔 萃 超 群
Bạt Tuỵ: Trội hơn quần chúng. Siêu quần: Vượt lên trên mọi người.
Bạt tuỵ siêu quần là người vượt hẳn đám quần chúng, tức là tài giỏi hơn mọi người.
Văn là thượng sĩ danh thần,
Võ thì bạt tuỵ siêu quần quân trung.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Báu là quý giá, tức những vật gì hiếm có mà người ta lấy làm quý trọng thì gọi là của báu.
Như: Vật báu, món hàng quý báu.
Nói về Quả Càn Khôn, Thánh giáo Thầy có dạy: Ðáng lẽ Trái ấy phải bằng chai, đút trong một ngọn đèn cho nó thường sáng, ấy là lời cầu nguyện rất quý báu cho cả nhơn loại Càn khôn Thế giới đó.
Báu nhà chữ hiếu đứng làm đầu,
Biết Ðạo thì con biết nghĩa sâu.
(Đạo Sử).
Giá kia nào kể nên chăng,
Tay chân chàng để cũng bằng báu châu.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Báu: Quý giá. Vật: Từ chỉ chung các loài, các thứ trong trời đất.
Báu vật là vật quý giá.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Tìm đựơc mối Ðạo mầu tức là chúng ta đã nắm vào tay một báu vật vô giá. Cái báu vật đó không hề mất được vì nó vô hình vô ảnh và chúng ta có thể chia nó ra làm muôn ngàn phần mà không hề sứt mẻ. Ta lại có bổn phận đem nó trao lại cho tất cả mọi người...
Toà sen báu vật xin đưa,
Chơn linh an ngự cho vừa quả duyên.
(Kinh Tận Độ).
Bàu Cà Na là tên một cái bàu thiên nhiên ở khoảng đất trước cửa Chánh Môn, Toà Thánh Tây Ninh.
Khi vẽ hoạ đồ cất Toà Thánh trên miếng đất do Hội Thánh vừa mới mua được, Đức Lý Giáo Tông lấy Bàu Cà Na làm điểm để định vị trí của ngôi Toà Thánh. Ngài dạy như sau: Ngoài Bàu Cà Na đo chừng 50 thước, đóng một cây nọc, ấy là khuôn viên Toà Thánh.
Ngoài ra, Đức Lý còn dạy Hội Thánh mua khoảng đất Bàu Cà Na để làm Động Đình Hồ, làm tăng vẻ đẹp nơi Toà Thánh. Ngài dạy: Phải mua khoảnh đất Bàu Cà Na làm Ðộng Ðình Hồ, nghe à!
Lộ Chánh Môn bên trái rõ ràng,
Bàu Cà Na trũng giữa khang trang.
(Thơ Huệ Phong).
1.- Bắc là để lên, gác lên, làm cho bên nọ tiếp liền với bên kia. Như: Bắc ván, bắc thang, bắc cầu.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Thầy đã nói đạo đức cũng như một cái thang vô ngằn, bắc cho các con leo đến phẩm vị tối cao tối trọng là ngang bực cùng Thầy, hay là Thầy còn hạ mình cho các con cao hơn nữa.
Cầu Nại Hà bắc giăng sông lớn,
Tội nhơn qua ốc rởn dùn mình.
(Kinh Sám Hối).
Cây trăm thước bắc thang bến khổ,
Hoa bốn mùa thơm chỗ nhớp nhơ.
(Nữ Trung Tùng Phận).
2.- Bắc 北 là tên một phương trong bốn phương, đối với hướng Nam. Như: Phương bắc, Sao Bắc Đẩu.
Thánh giáo Đức Quan Thánh Đế Quân: Từ Nam chí Bắc, khắp Ðông qua Tây, thỉnh thoảng trường náo nhiệt khởi động, diệt tàn kẻ vô đạo.
Gành Nam nêu đặng người tên tuổi,
Ðất Bắc mừng an bước lạc loài.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Cội Bắc chim về chiều ngả bóng,
Non Nam ác lố ánh tan sương.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Bắc: Đặt, gác qua một khoảng cách. Cầu: Công trình xây dựng trên các mương hay sông rạch.
Bắc cầu là nối tiếp bằng cây ván, bê tông vào giữa mương hoặc sông rạch để hai bên bờ có thể thông thương với nhau được.
Bắc cầu đắp sửa đường liền,
Kẻ qua người lại bước yên gọn gàng.
(Kinh Sám Hối).
Còn con ô thước bắc cầu,
Mất con là cửa vô lầu lãnh cung.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Bắc cầu: Nối tiếp bằng cây ván vào giữa mương hoặc sông rạch để hai bên có thể thông thương với nhau được. Bồi lộ: Bồi đắp đường lộ.
Bắc cầu bồi lộ ý nói làm những việc phước đức, như nối cầu để người qua lại kênh, mương dễ dàng và đắp sửa đường đi cho liền lạc.
...bắc cầu bồi lộ cho hành khách tiện bề qua lại; in thí kinh điển, thiên thơ cho mọi người coi theo hầu cải tà quy chánh,...
(Phương Châm Hành Đạo).
北 遊
Bắc: Phương Bắc, ở đây chỉ miền Bắc. Du: Đi chơi.
Bắc du là nói Đức Hộ Pháp đi ra miền Bắc Việt Nam.
Tháng mười năm Canh Dần 1950, Đức Hộ Pháp mở chuyến Bắc du, Ngài cùng phái đoàn đến tại Hà Nội thăm bổn đạo Cao Đài. Mặc dầu vào độ tiết Đông lạnh lẽo, nhưng bổn đạo nơi xứ Bắc Hà nhận được tình ấm áp nơi Đức Hộ Pháp đã sưởi ấm tinh thần trong mỗi tín đồ.
Lúc ấy trong tình cảnh đất nước khó khăn, được Đức Hộ Pháp không nệ Bắc Hà xa xôi, thân hành đến để lời phủ giáo về tình hình quốc nội và vai trò của tôn giáo Cao Đài đang trong xứ mạng thực hiện cơ cứu khổ và cứu thế của Đức Chí Tôn giao phó.
Trong chuyến Bắc du nầy, Đức Hộ Pháp có tiếp xúc với các nhân sĩ, trí thức, các giới nhân dân và đồng Đạo. Ngài có lời tuyên bố: Nền độc lập của nước nhà không ai có giữ mà ta phải đòi, hỏi xin. Trái lại, ta phải đoàn kết cùng nhau để tạo thành, vì độc lập chính là sở hữu của ta.
Nhiệm vụ của người công dân khi quốc gia hữu sự, một điều quan trọng là tất cả các thanh niên, học sinh cần biết là Quốc thể của một dân tộc, nhưng Quốc thể của một nước tức là sự tập họp một khối của những cá nhân nước ấy. Vậy thì mỗi công dân một nước phải có một cá thể đã, cá thể của một người là nhân cách và nhân phẩm của người đó vậy, mà muốn cho cá thể xứng đáng thì ông cha chúng ta đã để lại hai chữ vô cùng quý báu, ấy là “Tu Nhân” vậy.
Trong chuyến Bắc du này, Ngài có làm bài thi ở Hà Nội: “Non nước hồn thiêng đã tỉnh dần, Xuân thu xưa nay đổi thu xuân. Nam phong đỡ vững xa thơ Hán, Bắc tục xô nghiêng đảnh nghiệp Tần. Bác ái là đề thi tiến hoá, Nghĩa nhân ấy mục định duy tân. Thiên thời địa lợi đôi điều sẵn, Chỉ thiếu hoà nhân để hiệp quần”.
Hồi hương hơn bốn năm qua,
Bắc du nhớ lúc Ngài ra Hải Phòng.
(Quang Cảnh Toà Thánh).
Bao phen giáo hoá Âu, Phi, Á,
Còn tạc danh thơm chuyến Bắc du.
(Thơ Lan Chi).
北 斗
Bắc: Hướng bắc. Đẩu: Tên ngôi sao.
Bắc đẩu là một ngôi sao sáng nằm ở phương bắc. Sao Bắc đẩu là một định tinh gồm bảy ngôi sao, gọi là Thất tinh. Bốn vì sao hình cái đầu, ba sao hình cái cán hay cái chuôi.
Theo truyền thuyết, Bắc Đẩu còn là vị thần giữ bộ tử của loài người.
Trong Đạo Cao Đài, ngôi Bắc Đẩu là nơi ngự của Đức Chí Tôn, nên Thánh giáo Thầy có dạy Ngài Thái Bính Thanh như sau: Tại ngôi Bắc Ðẩu, con phải vẽ hai cái bánh lái cho đủ và sao Bắc Ðẩu cho rõ ràng. Trên vì sao Bắc Ðẩu, vẽ Con Mắt Thầy, hiểu chăng?
Kìa chiếu diệu bóng hồng Bắc Đẩu,
Kìa im đìm phúc hậu Nam Tào.
(Kinh Tận Độ).
北 斗 佩 星
Bắc Đẩu: Ngôi sao Bắc Đẩu. Bội tinh: Một thứ huy chương hình ngôi sao, đeo ở trước ngực.
Bắc Đẩu Bội Tinh là một loại huy chương dưới thời Pháp thuộc dành ban thưởng cho người có công trạng. Ngài Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung khi còn làm việc cho chính phủ Pháp đã được ban tặng Bắc Đẩu Bội Tinh Đệ Ngũ Đẳng vào ngày 18- 05-1912.
Khi Ngài được Đức Lý Giáo Tông giáng cơ ban cho quyền Giáo Tông hữu hình thì một số ít chức sắc Thiên phong sinh lòng đố kỵ, tìm cách buộc tội, công kích, hãm hại Ngài.
Ngài đã bị Toà án tỉnh Tây Ninh kết tội: Cho công quả đánh xe bò ban đêm, không thắp đèn hiệu, bò thiếu dây buộc ách và một số người đạo công quả thiếu thuế, nên bị phạt giam 2 ngày.
Ngài khăn áo chỉnh tề, mình đeo Bắc Đẩu Bội Tinh đến khám đường Tây Ninh để chịu giam hai ngày rưỡi, rồi sau đó Ngài viết một bức thư gởi trả Bắc Đẩu Bội Tinh cho chính phủ Pháp.
Tây Ninh Thánh Địa mong khai sáng,
Bắc Đẩu Bội Tinh chẳng đoái hoài.
(Thơ Chơn Tâm).
Phước địa Tây Ninh nguyền mở Đạo,
Bội Tinh Bắc Đẩu trả cho Đời.
(Quang Cảnh Toà Thánh).
北 斗 南 曹
Bắc Đẩu, Nam Tào là tên hai vì sao mọc đối nhau ở hai hướng bắc và nam.
Theo truyền thuyết trong dân gian, Bắc Đẩu Nam Tào còn là tên hai vị thần giữ bộ sinh và bộ tử của loài người nơi cõi trần.
Xem: Nam Tào Bắc Đẩu.
Cổ vắn khó trương lên Bắc Đẩu,
Hơi dài không thấu đến Nam Tào.
(Thơ Đức Hộ Pháp).
Ðài thượng đồng xem qua Bắc Ðẩu,
Ngôi sao sáng chói thấu Nam Tào.
(Thiên Thai Kiến Diện).
北 闕
Bắc: Phía bắc. Khuyết: Cái cổng, trên cổng có xây lầu để quan sát.
Bắc khuyết là chỗ vua ngự. Ngày xưa người ta bao giờ cũng dựng cái khuyết nằm về phía bắc để hướng về đó lạy vua, vì vua day mặt về nam.
Trong Tôn giáo Cao Đài, Bắc Khuyết là Huỳnh Kim khuyết ở về hướng Bắc, đó là một cái cổng bằng vàng ròng nơi cõi Thiêng Liêng.
Bắc Khuyết dẫn vào Ngọc Hư Cung, Linh Tiêu Điện là nơi họp triều nghi của Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế.
Đôi liễn bên Minh Sư có câu: Cao như Bắc Khuyết nhân chiêm ngưỡng, Đài tại Nam phương Đạo thống truyền 高 如 北 闕 人 瞻 仰, 臺 在 南 方 道 統 傳, nghĩa là Cao như Huỳnh Kim Khuyết ở hướng Bắc, nhân sanh đều chiêm ngưỡng, Đài cao tại phương Nam là mối Đạo lớn thống quản tất cả và truyền khắc nơi.
1.- Chỉ cổng thành dẫn vào chỗ vua ngự:
Cô thành khí liệt theo làn gió,
Bắc khuyết lòng trung lẫn bóng sương.
(Thơ Đào Công).
2.- Chỉ Cổng Huỳnh Kim Khuyết:
Nay gác bút hoa về Bắc khuyết,
Anh linh xin hộ khách trần ai.
(Thượng Cảnh Thanh).
北 南
Bắc Nam là phương bắc và phương nam. Vì hai hướng đó nằm đối nhau nên được dùng để chỉ sự xa cách hoặc để diễn tả sự gặp gỡ khó khăn.
Trong Hoa Tiên Truyện có câu: Bắc nam muôn dặm đường chim,Vì ai bèo nổi mây chìm bấy lâu.
Bắc Nam còn dùng để chỉ miền Bắc và miền Nam nước Việt Nam.
Lời hỏi Đức Hộ Pháp của Ngài Thượng Sanh trong Đàn cơ ngày 9 tháng 7 năm Bính Ngọ (Dl. 24-8-1966) tại Giáo Tông Đường có câu: Hội Thánh xin Đức Ngài cho dời liên đài của Đức Ngài về nơi Thánh địa, vì nếu đợi cho Bắc Nam thống nhứt theo Di ngôn của Đức Ngài thì không biết đến ngày nào mới thực hiện được.
Hiềm đang tranh chấp chia bờ cõi,
Cầu nguyện Bắc Nam hiệp nhứt phương.
(Thơ Huệ Giác).
Bắc Nam hiệp Tổ Hùng Vương,
Xúm nhau nâng nổi miếu đường Việt Nam.
(Nữ Trung Tùng Phận).
北 宗
Bắc: Hướng bắc. Tông đạo: Tất cả các tín đồ Cao đài trong một nước, một vùng hay một dân tộc hợp lại mà thành. Như: Tông đạo bắc phần, Tông đạo Đường nhơn.
Bắc Tông hay Bắc Tông Đạo là khu vực đạo Cao Đài ở xứ Bắc, tức gồm những tín đồ trong các tỉnh Đạo thuộc Bắc phần Việt Nam.
Vui lòng kẻ ở miền Nam bộ,
Phấn chí người đi xứ Bắc tông.
(Thơ Thông Quang).
Bằm, như chữ “Băm”, là vằm, chặt, bổ liên tiếp bằng vật sắc cho nát, cho vụn ra.
Như: Thịt bằm, dùng cuốc bằm đất cho kỹ để gieo hột, đồ chết bằm.
Nhớ khi dao khứa máu trào,
Nhớ khi bằm xắt nấu xào hầm kho.
(Thơ Hộ Pháp).
Chặt bằm trăm đoạn như vầy,
Có công giúp ích mà nay khổ hình.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
Băn khoăn là không yên lòng vì đang có những điều bắt phải nghĩ ngợi.
Như: Còn đang băn khoăn vì chưa biết phải làm như thế nào, tâm trạng rất băng khoăn ray rứt.
Nỗi nhớ băn khoăn lòng chín khúc,
Tình thương chồng chập núi bao tầng.
(Thơ Thuần Đức).
Bắn là phóng tên hay đạn bằng tác dụng của một lực đẩy mạnh và xa. Như: Bắn súng, bắn cung, bắn tên.
Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Cái quyền của Đạo, quỳ hương, tụng Kinh Sám Hối, đáo để trục xuất Nội Thành nơi Thánh Địa, rồi còn dữ hơn nữa trục xuất ra khỏi Đạo chớ chưa có giết ai, chưa có tù tội ngục hình, cũng chưa có đem ai mà bắn, mà giết bao giờ, ấy là Luật của Đạo.
Trói người vào đó xát chà,
Vì chưng hung bạo đốt nhà bắn săn.
(Kinh Sám Hối).
Cây, cỏ, thú, người đều trở ngược,
Gươm đâm, tên bắn chết trùng trùng.
(Thiên Thai Kiến Diện).
Bắn: Dùng cung để phóng tên đi. Bình 屏: Bức bình phong.
Bắn bình là bắn vào mắt hình con chim sẻ trong bức bình phong, chỉ sự kén rể.
Do tích Lý Uyên, tức Đường Cao Tổ, bắn trúng mắt chim sẻ ở bức bình phong, được Đậu Nghị gả con gái cho. Ấu Học có câu: Xạ tước bình nhi trúng mục, Đường Cao đắc thê 射 雀 屏 而 中 目, 唐 高 得 妻, nghĩa là bắn trúng mắt chim sẻ ở bình phong, ông Đường Cao Tổ được vợ.
Xem: Bể bình Lý Uyên.
Mảng trong thấm nghĩa nặng tình,
Để công bẻ liễu, bắn bình trượng phu.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Bắn: Dùng cung để phóng tên đi. Sẻ: Chim sẻ.
Bắn sẻ, bởi chữ “Xạ tước bình 射 雀 屏”, tức là bắn chim sẻ trong bức bình phong.
Do tích Lý Uyên (sau là vua Đường Cao Tổ) bắn trúng ngay mắt chim sẻ trên bức bình phong, được Đậu Nghị chọn làm rể. Bắn sẻ chỉ sự kén vợ,
Xem: Tước bình.
Tài bắn sẻ trai dầu chẳng thiếu,
Thì phép hoà tiêu gái liệu cho vừa.
(Phương Tu Đại Đạo).
1.- Băng là vượt ngang qua bằng con đường ngắn hơn, không theo lối đi sẵn có.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Người hành Ðạo mà thiếu chí thành cũng chẳng khác chi người băng rừng lúc ban đêm mà trong tay không có ngọn đuốc để chỉ đường dẫn hướng, vì chí thành là căn bản của con người thuần tuý.
Biết căn tầm lối băng về,
Đoạn dây oan nghiệt đặng kề Ngọc Kinh.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
Nặng mang xác thịt hiểm nghèo,
Mà còn lội suối, băng đèo khổ tâm.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
2.- Băng 冰 là nước đông cứng thành khối ở những nơi có khí hậu lạnh.
Như: Băng tuyết, ở miền Bắc nước ta mùa đông nước lạnh đóng thành băng.
Băng tuyết tấm gương gìn vẹn vẽ,
Liên đài chín phẩm tiếng còn khen.
(Thơ Chơn Tâm).
Băng: Đi ngang qua bằng con đường ngắn hơn, không theo lối đi sẵn có. Ngàn: Rừng.
Băng ngàn là vượt qua rừng, ý chỉ đường đi gian nan, vất vả. Thí dụ như thành ngữ: Vượt núi băng ngàn.
Chẳng từ ô trược dương gian,
Vì thương trẻ mới băng ngàn viếng thăm.
(Diêu Trì Kim Mẫu).
Thương Mạnh Quang băng ngàn xe đẩy,
Tùng bước chồng chẳng thấy truân chuyên.
(Thất Nương Giang Bút).
冰 雪
Băng: Nước lạnh đông cứng lại. Tuyết: Hơi nước trên không gặp lạnh đông lại và rơi xuống.
Băng tuyết là băng và tuyết, dùng để ví sự trong sạch, hoặc lòng trong trắng của người đàn bà.
Xem: Băng hồ.
Khí trong trẻo dường như băng tuyết,
Thần im đìm dường nét thiều quang.
(Kinh Tận Độ).
Mượn men sưởi mãi hồn băng tuyết,
Đem ngọc giấu vào vỏ ốc bươu.
(Thơ Hoàn Nguyên).
冰 清
Băng: Nước gặp lạnh đông lại. Thanh: Trong sạch.
Băng thanh là trong sạch như băng giá, chỉ hành vi trong trắng. Người xưa thường dùng chữ “Băng thanh” như chữ “băng ngọc” để ví với đức hạnh.
Như: Băng thanh ngọc khiết, nhứt phiến băng thanh tại ngọc hồ.
Lời hẹn thuỷ chung gìn tín nghĩa,
Nghìn thu rực rỡ tấm băng thanh.
(Thơ Thuần Đức).
Băng thanh thề trọn với tình lang,
Thấm thoát rừng phong lá trổ vàng.
(Thơ Thuần Đức).
1.- Bằng là giống nhau, ngang nhau, có ý so sánh. Như: Giá tiền bằng nhau, hai đứa cao bằng nhau.
Thánh giáo Chí Tôn có dạy: Hạnh khiêm nhường là hạnh của mỗi đứa con, phải noi theo gương Thầy mới độ rỗi thiên hạ đặng. Các con phải khiêm nhường sao cho bằng Thầy.
Mình biết phận mình an thú vị,
Chẳng phen bằng Phật cũng là Tiên.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Vàng chứa đầy kho chẳng ích chi,
Sao bằng chứa đức cháu con ghi.
(Đạo Sử).
2.- Bằng cũng như chữ “Bình”, là phẳng, không chếch lệch, trên đó có các điểm ở cùng một độ cao.
Như: San đất cho bằng, ngồi xếp bằng, một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng (Ca dao).
Anh em bạn tác vầy đông,
Xô thành cũng ngã, lấp sông cũng bằng.
(Nữ Trung Tùng Phận).
3.- Bằng còn có nghĩa là nếu, ví như, coi như.
Như: Ví bằng nó không trả tiền thì tôi cũng đành lòng, cầm bằng, bằng nay bốn bể không nhà.
Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông có câu: Lão cũng hết lòng chiều theo tánh từ bi của Ðức Thượng Ðế, bằng chẳng thì Lão xuống tay bôi xoá hết trường công quả Ðại Ðạo, thì chúng sanh hết trông mong, mà kẻ chác tội lỗi cũng khó bề lấy sức phàm phu để gây nên rối rắm nữa.
Ví bằng ai hỏi sao bao nả?
Rằng trẻ noi sau biến hoá già.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
4.- Bằng là bởi cái gì mà làm ra.
Như: Quả chuông đúc bằng đồng, cái áo nầy bằng hàng mỏng, cán bút nầy bằng sừng.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Ðáng lẽ Trái ấy phải bằng chai, đút trong một ngọn đèn cho nó thường sáng, ấy là lời cầu nguyện rất quý báu cho cả nhơn loại Càn khôn Thế giới đó.
Ðời Hớn, ngươi Lưu Khoan làm quan, hễ dân có tội thì đánh bằng roi lát cho biết nhục vậy thôi;
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
5.- Bằng 憑 là căn cứ vào, dựa vào đấy để làm tin, chứng cớ.
Như: Anh lấy gì làm bằng, có đủ giấy tờ làm bằng không?, tờ giấy nầy dùng làm bằng, bằng chứng.
Các con có đủ bằng chứng để tự biết mình do sự thăng phẩm vị thiêng liêng.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
6.- Bằng 鵬 là chim bằng, hay còn gọi chim đại bàng, là một loài chim có đôi cánh lớn, gặp gió thì bay cao. Thường ví với sự vẫy vùng của kẻ có tài mà gặp thời.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có đoạn: Thật vậy, sau 5 năm mấy tháng lưu đày. Ðức Ngài hồi hương với một tinh thần cao siêu hơn, một tâm linh cao đẹp hơn, một chí thành cứng rắn hơn. Chim bằng đã dưỡng sức từ bấy lâu nay chớp cánh bay tận bốn phương trời, mặc sức vẫy vùng giữa chốn ngàn mây dặm gió.
Bể hoạn trong theo làn sóng bạc,
Cánh bằng cao lướt dặm mây xanh.
(Thơ Thuần Đức).
Trời Âu thuận gió bằng tung cánh,
Đất Việt thừa cơ sáo sổ lồng.
(Thơ Vạn Năng).
憑 證
Bằng: Nương vào, dựa vào. Chứng: Làm bằng cớ.
Bằng chứng là vật hoặc việc dùng làm bằng để chứng tỏ sự việc là có thật.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Bần Ðạo nhắc lại, Ðức Chí Tôn đã hứa với con cái của Ngài những gì ngày nay chúng ta đã thấy, Ngài cho chúng ta y theo lời hứa, Bần Ðạo đứng tại toà giảng đây chứng chắc như thế, bởi những công nghiệp phi thường tạo thành trong thời gian qua để làm bằng chứng.
Các con có đủ bằng chứng để tự biết mình do sự thăng phẩm vị thiêng liêng.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
Hay “Bình địa”.
Bằng (bình): Bằng phẳng. Địa: Đất.
Bằng địa, như chữ “Bình địa 平 地”, là đất bằng, ý nói vùng đất yên ổn.
Bằng địa còn có nghĩa là đất bằng, thường dùng để chỉ cảnh cả một vùng đất bị tai biến, không còn nhà cửa, cây cối. Như: Đất bằng nổi phong ba, đất bằng dậy sóng.
Công trình gầy dựng Thất Tây Ninh,
Bằng địa sóng xao khiến rập rình.
(Đạo Sử).
朋 友
Bằng: Bè bạn. Hữu: Anh em bạn.
Bằng hữu là bạn bè.
Người xưa quan niệm rằng: Nữ vô minh kính, bất tri diện thượng tinh thô; sĩ vô lương hữu, bất tri hành bộ khuy du 女 無 明 鏡, 不 知 面 上 精 粗; 士 無 良 友, 不 知 行 步 虧 踰, nghĩa là người đàn bà nếu chẳng có gương trong để soi mặt thì làm sao biết mặt mình dơ, hay sạch. Kẻ sĩ nếu chẳng có bạn hiền, thì ai mách cho mình những lỗi lầm.
Như vậy việc kết bằng hữu rất cần thiết, nhưng muốn giao thiệp bạn bè, phải chọn người hiền lương, tín cẩn. Cách chọn bạn của cổ nhân thường rất kỹ lưỡng, bởi họ cho rằng: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”.
Khi bạn bè đã kết nguyền với nhau rồi, ta phải có lòng thành thật đối đãi với nhau, phải tin cậy và kính nhường để giữ niềm hoà ái, tương trợ tương thân. Anh em phải khuyên bảo nhau, giúp đỡ lẫn nhau, nếu có lỗi lầm, phải sửa đổi lẫn nhau, nghèo nàn phải thương yêu nhau, hoạn nạn phải cứu giúp nhau.
Anh em bằng hữu kết nguyền,
Một lòng tin cậy phải kiêng phải vì.
(Kinh Sám Hối).
Đối cùng bằng hữu hết tình quảng đại.
Xử với gia đình trọn ngãi từ hoà,
(Văn Tế Quyền Giáo Tông).
1.- Bẳng, bởi chữ “Bằng”, vì nằm trong một câu thơ, do luật bằng trắc mà đọc thành, có nghĩa là ngang nhau, giống nhau.
Như: Chi bẳng (chi bằng), so bẳng (so bằng), đâu bẳng (đâu bằng).
Chi bẳng một bầu đầy nhựt nguyệt,
Thông minh miệng thế mặc dò đon.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Ở hay đâu bẳng cách ăn hay,
Dầu chẳng thiệt may cũng đủ mày.
(Đạo Sử).
Sự nên hư định liệu phải thừa,
Quyền thầy dạy cũng chưa so bẳng.
(Phương Tu Đại Đạo).
2.- Bẳng tức là chữ “Bằng”, có nghĩa là nếu, ví như.
Sở dĩ đọc “Bẳng” là vì nằm trong câu thơ nên chịu luật bằng trắc mà đọc thành. Như: Ví bẳng, sao bẳng.
Ðường tu ví bẳng không lo trước,
Ðền điện Lương Vương phải cháy tiêu.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Thà xưa ví bẳng nay gìn vậy,
Lòng Mẹ ngại ngùng, con hỡi con!
(Diêu Trì Kim Mẫu).
Bắp còn gọi là ngô, một loại cây có trái bằng bắp tay, có nhiều hột bọc quanh cùi.
Hột bắp có thể thế lương thực như gạo, nếp để nấu ăn đỡ đói. Như: Bắp nếp, bắp ngọt, gạo bắp.
Cửa Sàigòn tính bán áp chế nội hàng,
Gạo bắp chở ngoại bang giành phần xuất cảng.
(Ngụ Đời).
1.- Bắt: Nắm lấy, vớ lấy, giữ lấy, theo đến nơi mà giữ lại. Như: Bắt cướp, bắt trộm, bắt chim.
Thánh giáo Đức Thích Ca Mâu Ni Phật viết Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát chuyển Phật Giáo Nam phương có dạy: Khi lập đạo Thánh thì đặng mười hai môn đệ, song đến khi bị bắt và hành hình thì chúng nó đều trốn hết, lại còn bán xác Thầy nữa.
Chờ gặp cơn hoa cợt đài trăng,
Bủa lưới bắt ả Hằng đem nhốt rọ.
(Phương Tu Đại Đạo).
2.- Bắt có nghĩa rộng là dùng trí khôn mà tìm xét được những sự ẩn vi.
Như: Bắt ấn, bắt quyết. Nghĩa rộng nữa là noi theo, như bắt chước.
Bắt ấn trừ yêu đã tới kỳ,
Ngọc Hư định sửa mối Thiên thi.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
3.- Bắt có nghĩa là phát hiện sự việc đáng chê trách của người khác, ép buộc phải chịu trách nhiệm.
Như: Bắt bí, bắt lỗi, bắt phạt, bắt tức cười.
Thay đời chẳng phải một tên ngươi,
Thấy phách lối kia bắt nực cười.
(Đạo Sử).
Bao thuở đầu non chim vắng dạng,
Thị thiềng càng thấy bắt buồn tanh.
(Đạo Sử).
4.- Bắt là làm cho liên lạc với hoặc nối thêm vào.
Như: Bắt hơi men, bắt thèm, bắt điện vào nhà, bắt vòi dẫn nước, bắt đài ngoại quốc.
Cũng như người ghiền rượu đã quen,
Hễ vừa bắt hơi men thì ngáp vắn.
(Phương Tu Đại Đạo).
Đừng sanh con đời thấy bắt nhờm,
Tránh nòi dữ bằng hơn tránh rắn.
(Phương Tu Đại Đạo).
Bắt: Nắm lấy, giữ lấy. Ấn: Ấn quyết, là pháp thuật của chư Tiên Phật, hay bọn phù thuỷ dùng tay làm phép để trấn ếm, trừ ma quỷ.
Bắt ấn là chư vị Thiêng Liêng hoặc thầy phù thuỷ dùng mười ngón tay đan tréo vào nhau làm ấn quyết để làm phép trấn áp ma quỷ.
Trong Đạo Sử của bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu, Lý Giáo Tông dạy Hộ Pháp, Thượng Phẩm có câu: Nhị vị Hiền Hữu lên bàn đứng theo phẩm mình đợi Luật đến, bái tiếp rồi Hộ Pháp bắt ấn tay mặt của Hộ Pháp mà để trên chồng Luật ấy.
Bắt ấn trừ yêu đã tới kỳ,
Ngọc Hư định sửa mối Thiên thi.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Bắt: Bám chặt, cái nầy tác động vào cái kia. Bén: Chạm tới và bắt đầu tác động.
Bắt bén là bắt đầu bén lửa. Như: Củi ở bếp mới vừa bắt bén, coi chừng tắt ngủm.
Bắt bén còn có nghĩa là được nước mà làm tới, hay quen thói. Như: Nay cho nó mượn tiền, lần sau nó bắt bén đến mượn nữa.
Cửa Đạo lặng trang lời quyến rũ,
Mùi thiền bắt bén thú tương dưa.
(Thơ Thuần Đức).
Bắt: Nắm lấy, vớ lấy, giữ lấy. Chước: Cách khôn khéo trong việc xử lý một công việc, mưu chước.
Bắt chước là làm theo kiểu của người khác một cách máy móc.
Thánh giáo Đức Chí Tôn dạy Giáo Sư Thái Bính Thanh làm Quả Càn Khôn có câu như sau: Con giở sách Thiên văn tây ra coi mà bắt chước. Tại ngôi Bắc Ðẩu, con phải vẽ hai cái bánh lái cho đủ và sao Bắc Ðẩu cho rõ ràng. Trên vì sao Bắc Ðẩu, vẽ Con Mắt Thầy, hiểu chăng?
Khá bắt chước nhuần lo độ chúng,
Dầu nên thành Phật cũng Bồng Lai.
(Đạo Sử).
Coi anh chị nét hay bắt chước,
Đừng nhỏ mà lấn lướt muốn khôn qua.
(Phương Tu Đại Đạo).
Bắt gió: Chận bắt ngọn gió, ý chỉ việc từ cái không. Nắn hình: Tạo ra hình, ý chỉ làm ra có.
Bắt gió nắn hình ý nói làm việc từ cái không làm ra cái có, như không tiền của, vật liệu mà xây dựng nên nhà cửa khang trang.
Bắt gió nắn hình nên thể pháp,
Đổi không ra sắc rõ huyền linh.
(Thơ Vạn Năng).
Bặt là dứt, im lặng, tức không để lại dư âm hoặc tin tức gì cả.
Như: Lời ca cất lên rồi bặt đi, vắng bặt, bặt vô âm tín, tiếng súng im bặt.
Lồng sương gió thoảng bặt hơi xuân,
Ðể bước tìm nơi Ðạo gội nhuần.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Ngày chờ mây áng ngàn dâu khuất,
Ðêm bặt đèn khuya một bóng nhìn.
(Bát Nương Giáng bút).
Chừ sao chăn chiếu lạnh lùng,
Phím loan nín bặt, tranh tòng đứt dây.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Bặt: Im lặng, tức không để lại dư âm hoặc tin tức gì. Tăm: Dấu vết, hay hình dáng của người hoặc cái đang tìm.
Bặt tăm, như chữ “Biệt tăm”, là hoàn toàn không còn thấy dạng, hoặc không biết được tin tức.
Như: Mấy năm nay anh ấy đi đâu mà bặt tăm.
Tiếc thay một gánh cơ đồ,
Xa thơ khuất dấu ngọn cờ bặt tăm.
(Ngụ Đời).
Bặt: Im lặng, tức không để lại dư âm hoặc tin tức gì. Tăm hơi: Dấu hiệu nhờ đó có thể biết về sự có mặt của người nào hoặc cái gì đang tìm kiếm.
Bặt tăm hơi, như chữ “Bặt tăm”, là hoàn toàn không thấy tăm hơi nào cả.
Xem: Bặt tăm.
Tưởng khúc Nghê thường mơ bóng dáng,
Chờ người cung Quảng bặt tăm hơi.
(Thơ Hoàng Nguyên).
1.- Bậc là tầng, nấc, từ bậc dưới lên bậc trên.
Như: Bậc thang, bậc cung cầm, bậc phẩm, giỏi vào bậc nhất, tiến bộ vượt bậc.
Thánh giáo Thầy có câu: Mỗi bậc phẩm đều đặng một vai tuồng của Ðấng cầm quyền thế giới ban cho, dầu thanh cao, dầu hèn hạ, cũng phải gắng làm cho rồi trách nhậm, hầu buổi chung cuộc, hồn lìa cõi trần, đặng đến nơi khởi hành mà phục hồi công cán.
Nào khi đứng lúc ngồi đủ mặt,
Qua tường đông lóng bậc tơ đồng.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Ta than lỗi bậc cung cầm,
Nàng sầu lạc nhạn ngư trầm biển mê.
(Nữ Trung Tùng Phận).
2.- Bậc là từ dùng để chỉ người thuộc hàng đáng tôn kính. Như: Bậc anh hùng, bậc cha mẹ.
Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông có câu: Thưởng phạt tuy chẳng phải hữu hình, nhưng là một sự mừng vui, chưa có bậc cao thượng ở thế nào bằng, và một sự buồn bã nào sánh đặng.
Say Ðạo là say bậc Thánh Hiền,
Hiền xưa sớm để bước tầm Tiên.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Bậc: Hạng, thứ xếp theo trình độ cao thấp, trên dưới. Phẩm: Bực quan hay bực chức sắc tôn giáo.
Bậc phẩm, như chữ “Phẩm bậc”, là cấp bậc của quan lại hay các chức sắc tôn giáo.
Đồng nghĩa với chữ “Phẩm trật 品 秩”.
Bậc phẩm còn có nghĩa là thứ bậc về phẩm chất của hàng hoá hay phẩm cách con người.
Thánh giáo Thầy có câu dạy: Thầy tưởng để cho các con lo liệu, giành giựt, đương cự với chúng nó, nhưng dòm Thiên thơ, thì tám phần mười đã sa ngay vào chơn của Quỷ vương vày đạp, mà lại phần đông các con là bậc phẩm cao, chức trách trọng hậu.
Thầy đã nói, đãi cả môn đệ Thầy đồng một mực, bất luận bậc phẩm.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
Giờ: Thời điểm đang nói hay đang làm.
Bây giờ chỉ khoảng thời gian hiện đang nói, hiện đang làm, tức lúc nầy.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Thầy chẳng biết bây giờ đây, Thầy phải bỏ Ðạo, liều đoạ với các con, hay là đợi cho Ðạo bỏ Thầy đó các con?
Ngắm coi cái nhỏ bây giờ,
Nhớ trong cái lớn mịt mờ chiêm bao.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Tài hay bảy bước thành thơ,
Điển xưa lưu dấu bây giờ còn ghi.
(Thơ Thiên Vân).
1.- Bấy là từ dùng để chỉ số lượng hoặc khoảng thời gian được xác định và đã nói đến. Như: Từ bấy đến nay.
Thánh giáo Lý Giáo Tông có câu: Vậy các đạo hữu khá hết lòng lo lắng vun đắp nền đạo cho vững vàng, hiệp ý với Thiên cơ mà bước lần lên địa vị cao thượng, chớ sụt sè ôm thói mờ hồ thì đã uổng công trình cực nhọc từ bấy lâu nay, lại thêm chẳng đặng theo Thánh ý của Thầy, là bậc Chí Tôn đã hết sức nhọc nhằn cùng sanh chúng.
Thầy đã cho phép con và các môn đệ có trách nhậm xứng đáng đặng tự liệu chung lo mà làm cho hoàn toàn nền Ðạo của Thầy đã vun đắp từ bấy nay.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
2.- Bấy là bao nhiêu, dường nào, chỉ ý than tiếc, khen ngợi, lạ lùng.
Như: Giỏi bấy, chán bấy, dường bấy, lắm bấy, đau đớn bấy, khéo vô duyên bấy.
Câu chọc ruột còn đau đớn bấy,
Huống âm dương hết thấy mặt nhau.
(Kinh Thế Đạo).
Chán bấy những phường xu cách mạng,
Dựa thân công tử giữ nồi xôi.
(Thơ Hộ Pháp).
Bấy: Từ dùng để chỉ số lượng hoặc khoảng thời gian được xác định. Như: Từ bấy đến nay. Chầy: Muộn, chậm, lâu, dài.
Bấy chầy là bao lâu nay, hay bấy lâu nay. Như: Ăn chay bấy chầy, hôm nay công tình đổ sông đổ biển hết.
Xuyên dương trăm bộ đấng nên tài,
Vùi lấp bấy chầy chí khí trai.
(Đạo Sử).
Xem chừng coi mảnh anh nhi,
Co tay đếm tuổi bấy chầy không cha.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Bấy: Từ dùng để chỉ số lượng hoặc khoảng thời gian được xác định và đã nói đến. Chừ: Giờ, bây giờ.
Bấy chừ, đồng nghĩa với chữ “Bấy giờ”, chỉ khoảng thời gian được nói đến trong quá khứ hoặc trong tương lai, có nghĩa khi ấy, lúc đó.
Quê xưa trở, cõi đoạ từ,
Đoạt cơ thoát tục bấy chừ tuyệt luân.
(Kinh Tận Độ).
Nương quyền gian dưỡng trung trừ,
Nát nhà hại Đạo bấy chừ mới an.
(Bát Nương Giáng Bút).
Mảnh thân xin gởi bấy chừ,
Nương theo thuyền huệ vào bờ Tương giang.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Bấy: Từ dùng để chỉ khoảng thời gian đã nói đến. Lâu: Mất nhiều thời giờ.
Bấy lâu là bao lâu nay, tức chỉ khoảng thời gian dài từ lúc đã nói đến cho tới bây giờ.
Thánh giáo Thầy có câu: Thầy vì lấy từ bi mà dìu dắt các con, nên tạm sửa chút máy huyền vi, là để cho các con lấy chí thành của Thầy un đúc bấy lâu mà đối đãi với kẻ nghịch cho đến ngày mãn công quả.
Riêng thương Kim Mẫu khóc thầm,
Biển trần thấy trẻ lạc lầm bấy lâu.
(Tán Tụng Công Đức).
Ta dặn về nhà lo cúng tế,
Tổ tông hoang phế bấy lâu rồi.
(Đạo Sử).
Bấy: Từ dùng chỉ khoảng thời gian được xác định và đã nói đến. Nay: Hiện tại, bây giờ.
Bấy nay là chỉ khoảng thời gian từ lúc đã nói đến cho đến ngày hôm nay.
Nói về cái chết của Chưởng Pháp Thượng Tương Thanh, Thánh giáo Thầy có dạy: Ðiểm Chơn thần của nó còn phải đến hầu trước Toà Tam Giáo mà đợi lịnh phát lạc tuỳ theo công quả, tội tình của nó bấy nay. Ấy là Thánh ý của Thầy đã lập luật riêng cho mỗi đứa trong các con đó. Chư môn đệ cũng nên hiểu biết.
Thầy đã cho phép con và các môn đệ có trách nhậm xứng đáng đặng tự liệu chung lo mà làm cho hoàn toàn nền Ðạo của Thầy đã vun đắp từ bấy nay.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
Bấy: Từ dùng để chỉ số lượng đã nói đến. Nhiêu: Tiếng bao nhiêu, bấy nhiêu nói tắt.
Bấy nhiêu chỉ số lượng đã nói đến, tức là bao nhiêu đó, ngần ấy.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có đoạn: Thầy nói cho các con hiểu rằng, muốn xứng đáng làm môn đệ Thầy là khổ hạnh lắm. Hễ càng thương bao nhiêu thì Thầy lại càng hành bấy nhiêu. Như đáng làm môn đệ Thầy thì là Bạch Ngọc Kinh mới chịu rước; còn ngã thì cửa Ðịa Ngục lại mời. Thương thương, ghét ghét, ai thấu đáo vậy ôi!
Muôn đức ngàn lành không sót một,
Bao nhiêu công quả bấy nhiêu phần.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Dầu cho biển cạn non mòn,
Tơ duyên khắng khít chỉ còn bấy nhiêu.
(Nữ Trung Tùng Phận)
Rộn rực tuồng đời vẫn bấy nhiêu,
Công danh quyền tước ngược Thiên điều.
(Thượng Phẩm Giáng Bút).
Bầy là đàn, lũ, tức đám đông người hay động vật cùng loài sống với nhau, hoặc tập hợp tại một chỗ.
Như: Bọn du côn kéo đến cả bầy, bầy thú dữ, chim lạc bầy còn thương cây nhớ cội.
Thánh giáo Thầy có câu: Ôi! Thầy đã lắm nhọc nhằn vì bầy con dại, muốn ra tay tế độ, vớt trọn cả chúng sanh thoát vòng khổ hải, nhưng chúng nó nhiễm luyến đã đầy mùi trần thế, tâm chí chẳng vững bền, thấy khó đã ngã lòng, mới đạp chông toan trở bước.
Bầy chó dữ mang xiềng chạy đại,
Thấy tội nhơn xúm lại phân thây.
(Kinh Sám Hối).
Bầy gà mất mẹ kiếm bơ vơ,
Yếu đuối biết ai để cậy nhờ.
(Đạo Sử).
Bầy trâu: Đàn trâu, hay nhiều con trâu. Đốt đít: Đốt lửa rồi buộc sau đuôi trâu.
Bầy trâu đốt đít là dùng trâu, đốt cỏ khô sau đuôi cho trâu nóng xung vào trận công thành.
Do tích Điền Đan 田 單 là người nước Tề đời Chiến Quốc. Khi nước Yên đánh chiếm hơn 70 thành của nước Tề, Điền Đan mới bày mưu dùng một ngàn con trâu cho mặc vải đỏ, vẽ rồng năm sắc, buộc sắt nhọn vào sừng trâu và bó cỏ khô tẩm dầu buộc vào đuôi trâu. Khi công thành, Điền Đan cho đốt cỏ khô sau đuôi trâu, trâu bị nóng nhảy lồng lên và chạy thẳng qua thành địch. Quân Tề theo sau lưng trâu, đột nhập vào thành địch và chém giết quân Yên vô số kể.
Nhờ vậy, quân Tề dần dần lấy lại được 70 thành đã mất, công lao của Điền Đan rất lớn, nên được vua Tề phong làm An Bình Quân.
Bầy trâu đốt đít để gương xưa,
Nhơn lý khuyên con gắng lọc lừa.
(Đạo Sử).
Bẫy là đồ dùng để đánh lừa loài vật cho nó mắc vào, bị giam hoặc bị hại.
Như: Chim sa vào bẫy, gài bẫy ở rừng bắt nai, nó bị thương vì bẫy chông.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Thầy có dạy: Thói vạy tà của nhiều đứa, ấy chẳng qua là những bẫy của Toà Tam Giáo để cho các con hơ hỏng mà phải vướng chơn lúc hành trình đó.
Thuận đường Thiên lý vào Tiên cảnh,
Nhơn dục khiến sai vướng bẫy tà.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
Bẫy: Vật dùng để đánh lừa loài vật cho nó mắc vào, bị giam hoặc bị hại. Dò: Bẫy thường làm dây thòng lọng để bắt chim.
Bẫy dò nói chung những vật dùng để dụ chim thú mắc vào để bắt.
Đã mê đắm tục quen chừng,
Lạc xiêu ngoại đạo máng chưn bẫy dò.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
Bẫy dò nhiều lắm coi chừng,
Lầm mưu vô ý sỉa chưn sụp giò.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
Bẫy: Cạm bẫy, dùng để lừa bắt thú và người. Vô thường: Không thường, tức là luôn biến đổi.
Bẫy vô thường là cái bẫy luôn luôn thay đổi, biến hoá để người ta không biết, nên dễ mắc lừa vào bẫy. Khi bị mắc vào bẫy rồi thì không thể thoát khỏi được.
Ðời mộng ảo nầy, sự còn mất như bọt nước mây bay, khá quy chánh cải tà, nắm giữ lòng thiện niệm thì một mai mới tránh khỏi bẫy vô thường của Quỷ vương đương giành xé.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
Bậy càn, nhảm, sai trái, không kể gì lề lối, khuôn phép. Như: Nói bậy, vẽ bậy lên tường.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Bần Đạo nói đây cả thảy con cái của Đức Chí Tôn ngó thấy một người ngơ ngơ không đủ trí, ngu xuẩn thì bao giờ họ cũng chỉ làm bậy làm quấy, không thể gì biểu họ làm điều phải với hay cho đặng.
Người giàu sang biết lễ thì không bạo ngược, kiêu căng; người bần tiện biết lễ thì không nản chí, không làm bậy.
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
Bậy: Sai trái, không kể gì lề lối, khuôn phép.
Bậy bạ là làm những việc quá sức sai trái, đáng nhục nhã, xấu hổ.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Ðịa cầu nầy nếu không mặt luật đạo đức thì sanh ra bậy bạ con người không chắc sống.
Mấy chị mình đạo đức phần hơn,
Nên chẳng kể chẳng sờn lời bậy bạ.
(Phương Tu Đại Đạo).
Coi đứa ở hay tham bậy bạ,
Thấy nhà quê nói giá thêm cao.
(Phương Tu Đại Đạo).
Bấm là ấn ngón tay hoặc móng tay, hay đầu ngón chân xuống vật gì.
Như: Bấm nút điện, bấm phiếm đàn, bấm dây chuyền, đi đường nhớ bấm chân cho khỏi trượt.
Bồng tang hồ hải nợ kề vai,
Bấm đốt thời gian kể khá dài.
(Thơ Thành Đức).
Bầm: Thâm tím và hơi đen. Gan: Gan con người, biểu tượng cho tinh thần dám đương đầu với nguy hiểm, dám chịu đựng.
Bầm gan, như câu thành ngữ “Bầm gan tím ruột”, là gan ruột bị thâm tím, ý chỉ hết sức khổ sở, hoặc hết sức căm giận, phẫn uất.
Nát mật khó xem nhà vắng chủ,
Bầm gan há chịu nước không quờn.
(Bát Nương Giáng Bút).
稟
1.- Bẩm là tiếng thưa, gửi, đặt đầu câu để nói với bậc đáng kính trọng. Như: Thưa bẩm, bẩm báo.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Về phần quan lại Phụ mẫu chi dân quyền hành rất rộng rãi, một tay sanh sát, ra có kẻ bẩm, người trình, đối với dân đen là bậc thánh thần bất khả xâm phạm, nếu chẳng giữ tâm chánh, để dục vọng lôi cuốn, thì trăm họ lầm than muôn dân khổ sở.
Nghĩa là: Trong chùa có quan chức gì đâu mà ràng buộc người ta phải thưa bẩm mình là Bà Lớn.
(Bát Nương Giáng Bút).
2.- Bẩm là tự trời phú cho mà sinh ra, không dùng một mình. Như: Bệnh của nó là bệnh bẩm sinh, bẩm tính của hắn là như thế.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Còn Nữ phái nên coi tánh đức của Mẹ mà làm gương tu tỉnh, lạ gì những tánh thường tình thế gian, đàn bà ăn hiếp chồng, thất kính với chồng, bỏ con trẻ bơ vơ, chẳng qua là họ không thọ bẩm cái tình thương yêu nồng nàn của Mẹ vậy.
Hễ thân mình thiểu khí loạn thần,
Thọ khí bẩm nhâm thần con dại dột.
(Phương Tu Đại Đạo).
稟 性
Bẩm: Tự Trời phú cho, nói về tư chất. Tính (tánh): Cái bản nguyên về tinh thần của người, bản chất của người, vật.
Bẩm tính là tính vốn có, do tự nhiên, hoặc có quan điểm cho rằng bẩm tính là tính trời đã phú cho.
Như: Bẩm tính cô ấy hiền lành.
Bản thân thường chuộng theo đường chánh,
Bẩm tính hằng ghi tránh nẻo tà.
(Thơ Thái Minh).
貧
Bần 貧 là nghèo khó. Như: Bần hàn, bần khổ, cờ bạc là bác thằng bần.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Hiện giờ cùng chung chịu cảnh thanh bần của Ðạo, chúng tôi phải tiết kiệm đồng tiền của Ðạo hết sức cân phân lợi hại trước khi tiêu phí, vì đó là huyết mạch của nhơn sanh, chúng ta không có quyền phung phí vô lối.
Ðừng quá so đo việc phú bần,
Bần hàn trong sạch mới nên thân.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
貧 薄
Bần: Nghèo khó, như cờ bạc là bác thằng bần. Bạc: Mỏng manh, yếu, nghèo, tệ, hèn kém.
Bần bạc là nhà nghèo hèn, của cải không được mấy.
Như: Cảnh nhà bần bạc.
Thầm nghĩ kẻ sang no ấm phận,
Cảm người bần bạc chạnh lòng thương.
(Thơ Thái Đến Thanh).
貧 窮
Bần: Nghèo. Cùng: Cuối hết, khốn khổ.
Bần cùng là nghèo khổ đến cùng cực.
Bần cùng còn có nghĩa là ở vào thế cùng, thế bí, không có cách nào khác.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Lúc Đạo còn khổ não, nghèo nàn, hèn hạ, thiên hạ đã khinh rẽ thế nào, có lạ chi theo thói tục thường tình của thiên hạ, họ thấy kẻ nghèo, kẻ khổ, kẻ rách rưới bần cùng họ miệt sát khi rẽ. Trước kia chơn tướng của Đạo cũng bị như thế.
Hễ bần cùng thì vay mượn,
Phải phận vướng nợ nần.
(Phương Tu Đại Đạo).
Dùng: Dùng dằng, lưỡng lự không quyết định.
Bần dùng là chần chừ, dụ dự, không có thái độ quyết định, hay dứt khoát.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Ðường đạo vững bền, chớ nên bạo tính mà cũng chẳng nên giải đãi bần dùng, gắng công trì chí, liệu chừng với nhau mà vẹt cho sạch mấy lối chông gai để cho dễ bước đường sau tấn bộ.
Môn đệ nhiều đứa lòng vẫn nhẹ tợ lông, thấy sự chi khó thì đã muốn bần dùng thối bước.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
貧 寒
Bần: Nghèo. Hàn: Lạnh lẽo.
Bần hàn là nghèo lạnh. Vì nghèo không tiền sắm quần áo nên phải khổ do lạnh. Bần hàn chỉ cảnh nghèo nàn khổ sở.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thầy có dạy: Bị hàng phẩm Nhơn tước phải phù hạp với hàng phẩm Thiên tước, đáng lẽ Thầy cũng nên cho các con chịu số phận bần hàn mà không nỡ, nên ngày nay mới có kẻ như vậy.
Thương cửa bần hàn mà xuất Thánh,
Nếu thâu tức khắc hiếm người cười.
(Đạo Sử).
Ngãi nhân cam phận chịu bần hàn,
Mình biết trọng mình mặc kẻ sang.
(Đạo Sử).
Đã vợ chồng đừng kể hèn sang,
Dầu chồng kẻ bần hàn cũng chúa.
(Phương Tu Đại Đạo).
貧 苦
Bần: Nghèo. Khổ: quá khó khăn, thiếu thốn về vật chất, hoặc bị giày vò, đau đớn về tinh thần.
Bần khổ là nghèo nàn và khổ sở.
Trong quyển Giáo Lý, Ngài Tiếp Pháp Trương Văn Tràng có viết: Theo sách Lễ Ký, lòng người ta lúc nào cũng có muốn sự ăn uống, sự trai gái và sợ cái nạn tử vong, bần khổ.
Thương người bần khổ tiết trời đông,
Sanh hoạt bao phen lội giữa đồng.
(Thơ Thái Đến Thanh).
貧 賤
Bần: Nghèo. Tiện: Hèn.
Bần tiện là nghèo hèn. Như: Cảnh nhà bần tiện.
Khi nói về người trượng phu, Mạnh Tử cho rằng: Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất, thử chi vị đại trượng phu 富 貴 不 能 婬, 貧 賤 不 能 移, 威 武 不 能 屈, 此 之 謂 大 丈 夫, nghĩa là giàu sang không làm cho say đắm, nghèo hèn không làm cho thay đổi, oai võ không làm cho khiếp sợ, ấy mới gọi là đại trượng phu.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Phú quý thì hành động theo phú quý, bần tiện thì hành động theo bần tiện, tuỳ theo thời thế và cảnh ngộ mà đối đãi với mọi người; giàu chẳng bợ, khó chẳng khinh, người quân tử lúc nào cũng an phận mà vui thú.
Phú cường xa xỉ không phòng bị,
Bần tiện cần cù giữ kỷ cang.
(Thơ Thái Đến Thanh).
Bẩn là có nhiều bụi bặm, cáu ghét hoặc bị dơ dáy, trái với sạch.
Như: Đống rác trước nhà trông rất bẩn, moi đất làm cho tay bẩn, mực lem luốc làm cho bẩn vở.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Thánh Thể của Đức Chí Tôn hồi buổi đó không giá trị, không trật tự, họ chia phe phân phái, họ còn phe đảng dữ lắm, mạnh đặng yếu thua, thế lực dữ lắm không có cái gì thiếu, làm cho Thánh Thể Đức Chí Tôn buổi nọ dơ bẩn làm sao đâu, không thể tưởng tượng được.
Thiên hạ cúi mình bò lết trong chỗ nhơ bẩn vì chút ít lợi quyền, chúng ta phải vươn mình lên cao để đón hứng mùi hương thanh thoát...
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
Bẩn: Dơ dáy, xấu xa, đê tiện.
Bẩn thỉu là dơ dáy, nhơ nhớp.
Bẩn thỉu còn có nghĩa là hẹp hòi, ty tiện, xấu xa đến mức đáng khinh ghét.
Huấn từ Thượng Sanh trong dịp Hội Thánh đãi tiệc chư Chức sắc và Nhân viên công quả tại Hạnh Ðường ngày 18 tháng Giêng năm Tân Hợi (Dl.13/2/1971) có đoạn: Người đã khép mình trong cảnh giới tu hành đã xả thân cầu Ðạo, thấy diễn những lớp tuồng bẩn thỉu như vậy cũng đã bất bình, chán ngán. Không lẽ còn mê luyến hồng trần, ham mùi chung đỉnh để rồi phải chịu lỡ dở công phu trên đường lập vị.
Những kẻ đau khổ chán chường, đó là những vết đen tối của bức tranh xã hội những vai tuồng bẩn thỉu của sân khấu đời.
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
1.- Bận là có việc đang phải làm, không còn có thể làm gì khác được. Như: Bận dọn dẹp, bận làm bài.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Nơi cửa Ðạo, người hành đạo phải làm gương mẫu cho nhơn sanh và muốn lập chữ tâm phải quên được cái “bản ngã” thường tình. Trừ bỏ được bịnh chỉ biết có mình, hành vi nào cũng được trong sạch, khỏi bận tâm lo mất còn thiếu đủ.
Trừ ra đứa nào phải vắng mặt bận việc thì chế đặng.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
2.- Bận là mặc, vận, khoác vào người. Như: Bận áo quần, ăn bận đẹp đẽ.
Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Có câu chuyện tức cười, bằng cớ hiển nhiên như Ðức Trạng Trình là Nguyễn Bỉnh Khiêm buổi nọ hồi còn bé đi học, có Quan Huyện đến xét trường hay là thăm trường chi đó, nghe nói Ngài nổi danh Thần Ðồng khi thấy Ngài nhỏ người, thân không cao lớn hơn ai, lại bận áo rộng xùng xình, vì bận bính của ai đó lết bết dưới đất tức cười lắm nên ghẹo chơi.
Ðứa cầm dùi đục, thằng nghiên mực,
Cậu bận áo nâu, chú khố hồng.
(Thiên Thai Kiến Diện).
Lỡ tay làm ra áo lộn hò,
Mà bị chúng phạt cho bận trái.
(Phương Tu Đại Đạo).
Bận: Mắc, không rảnh, hay vướng vít.
Bận bịu là vướng bận, tức là ràng buộc, hay vướng mắc nhiều thứ công việc.
Thánh giáo Đức Hộ Pháp có dạy: Thầy đã có nói với tất cả các con lớn nhỏ rằng, thầy không buộc mỗi đứa phải ở lại cho đến ngày thầy về với cái liên đài, chỉ trừ chú Đốc và Cao, cùng đứa nào không bận bịu gia đình và hiếu đạo.
Nghiệp nước nỗi nhà còn bận bịu,
Thanh nhàn chưa phải buổi xem mai.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Chưa rảnh nợ đời còn bận bịu,
Muốn toan thoát tục tính sao xong.
(Đạo Sử).
Bởi mến cảnh đôi cành đài liễu,
Bởi ưa hoa bận bịu đài hoa.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Bận: Mắc, không rảnh, hay vướng vít. Lòng: Lòng dạ, biểu tượng cho tâm lý tình cảm.
Bận lòng là để tâm lo lắng, suy nghĩ đến mức không thể yên lòng được.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thanh Tâm Tài Nữ có câu: Em đã nói trước với quý anh rồi, có lạ chi dòng luân luân chuyển chuyển mà da díu bận lòng. Em đến giúp nên cơ Ðạo đặng báo nghĩa cho Chí Tôn.
Ngàn dâu ngó ngày chầy thăm thẳm,
Bận lòng con lại vấn nô y.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Bâng khuâng là có những cảm xúc luyến tiếc, nhớ thương xen lẫn nhau, gây ra trạng thái như hơi ngẩn ngơ.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Nạn nhơn sống sót phải chịu vất vả điêu linh, màn trời chiếu đất, lại còn phải bâng khuâng lo sợ không biết số phận mình ngày mai sẽ ra thế nào?
Phận liễu mai phải mang kiếp hồng trần,
Thầy lắm lúc bâng khuâng thương trẻ dại.
(Ngọc Hoàng Thượng Đế).
Từ giã các con ở lại trần,
Mẹ về Tiên cảnh dạ bâng khuâng.
(Diêu Trì Kim Mẫu).
Nhắn mưa gởi gió bâng khuâng để,
Một tấm tơ duyên đứt đoạn gìn.
(Bát Nương Giáng Bút).
Bập bẹ là chỉ cách nói hoặc đọc một cách khó khăn và chưa rõ ràng, vì mới học nói, mới biết một ít, tức lời nói khó nghe, chưa được rõ ràng.
Như: Bập bẹ như trẻ lên ba, con bé bập bẹ nói, nó mới biết đánh vần bập bẹ.
Rủi gặp trẻ tranh lời lấn lẽ,
Phải nhớ em bập bẹ nói từ lời.
(Phương Tu Đại Đạo).
Bập bồng, như chữ “Bập bềnh”, là từ gợi tả dáng chuyển động lên xuống, nhấp nhô theo làn sóng, làn gió.
Bập bồng còn có nghĩa không chắc, bấp bênh, nổi lên dẹp xuống, đi bước cao bước thấp không đều.
Bập bồng Tần quốc tan hoang,
Hoàng cung không chúa, ngai vàng không vua.
(Nguyễn Trung Trực Giáng).
Một bầu trời nước rộng mênh mông,
Ngồi chiếc thuyền câu thả bập bồng.
(Thơ Thông Quang).
Co ro bến vắng chiều quan tái,
Đò lẻ sang sông bến bập bồng.
(Thơ Hoàn Nguyên).
不
Bất là không, chẳng, không dùng một nình. Như: Bất bình, bất đắc dĩ, bất mãn, bất tiêu bất diệt.
Thánh giáo Thầy có dạy: Còn chấp bút, khi Thầy đến thì làm cho thần con bất định một lát, cho thần xuất ra nghe Thầy dạy, còn tay con tuân theo mà viết. Ấy là một phần của con, một phần của Thầy hiệp nhứt, mới thấu đáo Càn khôn, tinh thông vạn vật đặng.
Ngọc ẩn thạch kỳ ngọc tự cao,
Hoàng Thiên bất phụ chí anh hào.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Lời khen miệng thế quý chi đâu,
Bất quá như son lộn bã trầu.
(Đạo Sử).
不 平
Bất: Chẳng. Bình: Công bình, bằng lòng.
Bất bình là chẳng có bình đẳng, hoặc có nghĩa là không bằng lòng.
Thánh Giáo Chí Tôn dạy: Thầy lại còn nói rằng, ngày nào các con còn trông thấy một điều bất bình ở đời nầy thì Ðạo chưa thành vậy.
Một nhà gia pháp xưa đâu mất,
Ðể lũ con hoang rất bất bình.
(Đạo Sử).
Lỡ bất bình con chẳng giống cha,
Làm lếu giống chà và ma ní.
(Phương Tu Đại Đạo).
不 及
Bất: Chẳng. Cập: Kịp.
Bất cập là không ngang tới, không bằng, tức là chưa đúng mức.
Thái quá và bất cất cập là hai thái độ mà các Nho gia thời xưa thường khuyên người ta nên tránh, mà phải giữ mức trung dung.
Chớ thái quá đừng lòng bất cập,
Phép tu hành luyện tập nhiều ngày.
(Kinh Sám Hối).
Không thái quá, không dùng bất cập,
Giữ bực thường bồi đắp thiện căn,
(Đại Thừa Chơn Giáo).
不 公
Bất: Chẳng, không. Công: Ngay thẳng, không tư vị.
Bất công là ngay thẳng, không công bằng.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Từ bốn mươi năm nay, trải qua bao nhiêu thăng trầm biến chuyển, chịu biết bao sự bất công và áp bức của bạo quyền, mặc dù có lúc trực tiếp nhận lấy phần hy sinh để thể hiện sứ mạng Ðạo cứu Ðời, Ðạo Cao-Ðài hôm nay mới chính thức nở mặt với các tôn giáo miền Âu Á để đem giọt bác ái, từ bi chan rưới cho đồng bào chủng tộc.
Chẳng lẽ ngôi Tiên phẩm Phật là địa vị tối trọng của các chơn linh mà Thầy lại đành bất công, tự nhiên đem các con mà để trên đó.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
Hay “Bất chính”.
Bất: Chẳng, không. Chánh (chính): Ngay thẳng.
Bất chánh, như chữ “Bất chính 不 正”, là không ngay thẳng, không chính đáng, trái với đạo đức.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Thầy đã lấy lòng từ bi và đức háo sanh mà dìu dắt các con của Thầy, chẳng dụng sự khinh trọng mà làm cho chinh lòng các con, chẳng lấy hành tàng bất chánh mà làm cho mất điều hoà nhã.
Vô vi chưa dễ bày chân tướng,
Bất chánh thường hay lộ giả hình.
(Thơ Thuần Đức).
Đời rày hung bạo ngỗ ngang,
Lòng người bất chánh, dạ càng bất nhơn.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
不 移 不 易
Bất di: Chẳng dời. Bất dịch: Không đổi.
Bất di bất dịch là không dời không đổi.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có dạy: Ta đã hiểu được cái chơn linh của chúng ta nó bất di bất dịch, nó tồn tại mãi mãi nơi cõi Hằng Sống, biết được cái sống ấy là hằng sống thì ta phải tô điểm nó, gìn giữ nó cho được trường tồn đẹp đẽ.
Dòng đời xuôi ngược cứ thay đổi theo thế hệ trào lưu, chỉ có chơn lý là bất di bất dịch.
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
不 滅
Bất: Chẳng, không. Diệt: Tiêu diệt, mất.
Bất diệt là chẳng bao giờ mất.
Trong lễ Kỷ niệm Đức Hộ Pháp, Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Sau nữa, nhớ công ơn Ðức Ngài, chúng ta phải thành thật thương yêu nhau, không vì một lẽ nào mà chia rẽ nhau, thù nghịch lẫn nhau, vì Ðức Ngài cũng vì thương yêu, nên đã phí cả một kiếp sanh để gắng công lưu lại cho đời một tinh thần bất diệt.
Huệ đăng bất diệt,
chiếu Tam thập lục Thiên chi quang minh.
(Kinh Cúng Tứ Thời).
Thân tục hoá làm thân bất diệt,
Phước phàm đổi lấy phước thiêng liêng.
(Thơ Tiếp Đạo).
不 定
Bất: Chẳng, không. Định: Yên lặng, ổn định.
Bất định là ở trạng thái không ổn định, hay thay đổi.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có đoạn: Trái lại nếu Lễ không nghiêm, Nhạc không hoà thì đàn cúng có cái trạng thái hỗn loạn khiến cho người đến Lễ bái có một tâm trạng xao xuyến, tinh thần bất định. Ðó là một sự thất Lễ đối với các Ðấng Thiêng liêng và như vậy Ðức Chí Tôn không khi nào giáng Ðàn, tà quái có thể thừa dịp xung nhập gây nên điều rắc rối.
Còn chấp bút, khi Thầy đến thì làm cho thần con bất định một lát, cho thần xuất ra nghe Thầy dạy, còn tay con tuân theo mà viết.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
不 同
Bất: Chẳng, không. Đồng: Cùng, giống như.
Bất đồng là không cùng nhau, không đều nhau, hay không giống nhau.
Thánh giáo Đức Chí Tôn dạy đạo một người Pháp là Latapie có câu: Tại sao các con lại chia rẽ nhau vì sự bất đồng Ðạo lý, mà chính tất cả các con đều phải chung chịu đau khổ để rửa tội của các con ở cõi thế gian nầy?
Tôn Giáo cũng bất đồng tư tưởng,
Ðạo Hồi dùng tín ngưỡng cực nghiêm.
(Thiêng Liêng Hằng Sống).
不 德
Bất: Chẳng, không. Đức: Tính tốt, hợp với đạo lý.
Bất đức là không có đạo đức.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Sanh nhằm thời buổi nhơn sanh dụng gương bất đức mà gieo hoạ cho bước trần, khiến cho sai sót nẻo luân thường.
Dạy cho ghê bán dạng thuyền quyên,
Đừng đem xác chở chuyên trai bất đức.
(Phương Tu Đại Đạo).
不 教 而 善
Bất: Không. Giáo: Dạy. Nhi: Mà. Thiện: Lành.
Bất giáo nhi thiện là chẳng cần nghe lời dạy mà tánh vẫn lành, ý chỉ vào hàng thượng phẩm, thuộc bậc Thánh.
Trong Minh Tâm Bửu Giám có câu: Thượng phẩm chi nhân bất giáo nhi thiện, trung phẩm chi nhân, giáo nhi hậu thiện, hạ phẩm chi nhân, giáo diệc bất thiện. Bất giáo nhi thiện, phi Thánh nhi hà? Giáo nhi hậu thiện, phi Hiền nhi hà? Giáo diệc bất thiện, phi ngu nhi hà? 上 品 之 人, 不 敎 而 善, 中 品 之 人, 教 而 後 善, 下 品 之 人, 教 亦 不 善. 不 教 而 善, 非 聖 而 何? 教 而 後 善, 非 賢 而 何? 教 亦 不 善, 非 愚 而 何?, nghĩa là bậc thượng phẩm, chẳng cần ai dạy cũng lành, bậc trung phẩm nhờ có người dạy mới lành, bậc hạ phẩm, dù có người dạy cũng chẳng lành. Không dạy mà lành, chẳng phải bậc Thánh là gì? Dạy rồi mới lành, chẳng phải bậc hiền là gì? Dạy cũng chẳng lành, chẳng phải người ngu là gì?
Thánh nhơn đã có nói: "Thánh" bất giáo nhi thiện, "Hiền" giáo nhi hậu thiện, "Ngu" giáo diệc bất thiện...
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
不 幸
Bất: Không. Hạnh: May mắn.
Bất hạnh là không may gặp phải, làm đau khổ.
Bất hạnh chỉ người gặp phải đang gặp phải điều bất hạnh. Như: Kẻ bất hạnh đang chịu nhiều sự đau khổ.
Nhìn bất hạnh ân cần cứu rỗi,
Thấy lâm nguy mở lối đưa đàng.
(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).
不 孝
Bất: Chẳng, không. Hiếu: Có lòng kính yêu và chăm sóc cha mẹ.
Bất hiếu là không hiếu thảo, tức chỉ người làm con không có lòng biết ơn, không kính yêu và không lo chăm sóc cha mẹ, ông bà.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Quan Âm Như Lai có câu: Các em thử xét, ở đời nếu cha phàm mà rủi có một đứa con bất hiếu thì có phiền chăng?
Con bất hiếu xay cưa đốt giã,
Mổ bụng ra phanh rã tim gan.
(Kinh Sám Hối).
不 孝 有 三
Bất: Chẳng, không. Hiếu: Thảo với cha mẹ. Hữu: Có. Tam: Ba.
Bất hiếu hữu tam, do câu: Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại 不 孝 有 三, 無 後 為 大, nghĩa là có ba điều bất hiếu, không con là tội nặng.
Xuất xứ câu này là của Mạnh Tử.
Trong Tứ Thư Tập Chú, Chu Hy chú giải về ba điều bất hiếu rằng: Nhà nghèo, cha mẹ già yếu, mình không mưu tính việc làm để nuôi mẹ, ấy là một bất hiếu. Hùa theo ý muốn chẳng hay để hãm cha mẹ vào việc bất nghĩa, ấy là hai bất hiếu. Không lấy vợ đẻ con, làm tuyệt nòi giống của cha mẹ, ấy là ba bất hiếu.
"Bất hiếu hữu tam vô hậu kế đại" luật thiên nhiên đã định vậy, vì lo nhơn luân tối trọng là thế nào, Qua nói cho mấy em thấu đáo.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
不 和
Bất: Chẳng, không. Hoà: Hoà hợp, hoà thuận.
Bất hoà là không hoà hợp hay hoà thuận với nhau.
Thánh giáo Đức Quan Âm Như Lai có dạy: Còn gia đình chẳng hoà thì cha con mích nhau, chồng vợ lìa tan, anh em ly tán. Còn trong lân lý chẳng hoà thì dân cư bất mục. Nước chẳng hoà thì sanh ly loạn. Còn cả thế giới bất hoà thì nhơn loại đấu tranh. Vì vậy, Thiếp khuyên các em dĩ hoà vi tiên.
Thiên căn chánh kiếp chỉ tâm hành,
Thán thế bất hoà chỉ cạnh tranh.
(Đạo Sử).
Chánh sách bất hoà không hội hiệp,
Hoàn đồ chia xẻ khó chung đồng.
(Thơ Hộ Pháp).
不 惑
Bất: Chẳng, không. Hoặc: Nghi ngờ.
Bất hoặc là không còn nghi ngờ gì nữa, ý chỉ ngoài bốn mươi tuổi.
Do câu nói của Đức Khổng Tử: Tam thập nhi lập, tứ thập nhi bất hoặc, ngũ thập tri thiên mạng 三 十 而 立, 四 十 而 不 惑, 五 十 知 天 命, nghĩa là con người, ba mươi tuổi thì lập, bốn mươi tuổi thì không còn nghi ngờ, lầm lẫn nữa, năm mươi tuổi thì biết mệnh trời.
Nhơn gian bất hoặc là gì,
Biết thân lập chí ắt thì thành công.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
不 朽
Bất: Chẳng, không. Hủ: Mục nát.
Bất hủ là chẳng mục nát.
Tả Truyện có câu: Thượng hữu lập đức, kỳ thứ hữu lập công, kỳ thứ hữu lập ngôn. Tuy cửu bất phế, thử chi vị bất hủ 上 有 立 德, 其 次 有 立 功, 其 次 有 立 言. 雖 久 不 廢, 此 之 謂 不 杇, nghĩa là trên có lập đức, tiếp đến là lập công, sau nữa là lập ngôn.Tuy lâu mà không hư hỏng, nên gọi là bất hủ (Không mục nát).
Như vậy, tánh đức, công nghiệp và ngôn từ lưu lại về sau thì mãi mãi không mất.
Nghĩa bóng: Bất hủ là không mất, còn mãi mãi.
Tiều lão muôn đời danh bất hủ,
Cầu chi quyền thế chạy thi đua.
(Thơ Thông Quang).
Chạm thanh sử cho dời danh bất hủ,
Gội hồng ân nhờ đạo phước vô biên.
(Cội Đạo Bốn Mùa).
Diệt mị trừ gian danh bất hủ,
Xuân Thu lập chí nguyện làu gương.
(Thơ Huệ Phong).
不 期
Bất: Chẳng, không. Kỳ: Hạn, hẹn.
Bất kỳ là không có kỳ hẹn, thỉnh thoảng.
Bất kỳ còn có nghĩa như chữ “Bất cứ”, là không loại trừ trường hợp cụ thể nào cả.
Thánh giáo Thầy có dạy: Chẳng luận là Nam hay Nữ, bất kỳ là nước nào, nó muốn biết đạo lý, con phải độ, biểu chúng nó đến nghe Thầy dạy mới có thế nó tu hành đặng, trước con không nên buộc chúng nó lắm.
Thương đám nhơn sanh Trời trổ mặt,
Trả lời như vậy bất kỳ ai.
(Đạo Sử).
不 論
Bất: Chẳng, không. Luận: Bàn.
Bất luận là không kể, không suy đến.
Đạo Luật Mậu Dần có câu: Bàn Trị Sự nên chọn cử hạng người tài đức, bất luận là thanh niên hay là bậc trưởng lão, miễn vị ấy đặng phần đông tín nhiệm là đủ.
Thầy đã nói, đãi cả môn đệ Thầy đồng một mực, bất luận bậc phẩm.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
Xuân về én luyện khắp mây ngàn,
Bất luận người nghèo với kẻ sang.
(Thơ Hiến Pháp).
不 力
Bất: Không, chẳng. Lực: Sức, khả năng.
Bất lực là không làm gì được, tức không có hoặc không đủ sức làm việc.
Thánh giáo Nguyệt Tâm Chơn Nhơn có câu: Bần đạo đã chán thấy kẻ bất lực rất nhiều. Vậy Bần đạo để lịnh cho mỗi vị Thiên phong xét mình, khai tội cùng Giáo Tông và Hộ Pháp, rồi sau mới định rõ điều thưởng phạt.
Việc đào tạo Chức Sắc là quyền sở hữu của Vạn Linh, nếu Chức Sắc trong Thánh Thể Đức Chí Tôn thiếu thì Bần Đạo có thể đỗ cho quyền Vạn Linh bất lực.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
不 良
Bất: Chẳng. Lương: Lương thiện, lành.
Bất lương là không lương thiện, không lành.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Trong các con, nhiều đứa muốn chư Thần, Thánh hành phạt những tánh bất lương của bọn vô đạo kia đặng làm cho đường đạo vững bền, nền Ðạo mau thành tựu.
Phật Trời nhơn vật đồng thương,
Có đâu hưởng của bất lương mà mời.
(Kinh Sám Hối).
不 滿
Bất: Không, chẳng. Mãn: Đầy, tự cho là đủ.
Bất mãn là không được thoả mãn điều mong muốn và có sự phản ứng.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Còn như những kẻ không biết hạ mình hiu hiu tự đắc, tự cao, tự đại, thành ra cái giá trị của nó đối với thiên hạ vì kiêu một chút mà người ta bất mãn, vì nó tự cao, tự tôn, tự đại, xấc xược dối trá không đáng giá gì hết,
Chưa gặp thời Lý Hề dày dạn,
Bắt đưa dâu bất mãn trốn đi.
(Báo Ân Từ).
Ðã bất mãn khó cảm thông,
Tự định vị để thoát vòng chuyển luân.
(Thiêng Liêng Hằng Sống).
不 明
Bất: Không, chẳng. Minh: Sáng suốt, rõ ràng.
Bát minh là không sáng suốt, không rõ ràng, có chỗ mờ ám đáng nghi ngờ.
Thánh giáo Thầy dạy Ngài Quyền Giáo Tông có câu: Trước khi ngưng cơ, Thầy đã cho lịnh dùng cơ bút thế nào? Thầy tưởng mỗi Thiên phong đều đặng Thánh Ngôn của con đã ban hành, sao còn có ra việc bất minh ấy, là con chẳng nói tất cho mỗi Thiên phong rõ và ban hành Thánh ý, để cho chúng nó chác lấy vào mình, thì con cũng không khỏi chia một phần trong ấy.
Thưởng phạt ra bất minh, ắt phải truất bỏ cơ luân hồi chuyển kiếp.
(Pháp Chánh Truyền CG).
不 睦
Bất: Chẳng, không. Mục: Hoà thuận.
Bất mục là không hoà thuận nhau.
Lời của sách Ích Trí dạy như sau: Quân thần bất tín, quốc bất an; phụ tử bất tín, gia bất mục; Huynh đệ bất tín, tình bất thân; bằng hữu bất tín, giao dị sơ 君 臣 不 信, 國 不 安; 父 子 不 信, 家 不 睦; 兄 弟 不 信, 情 不 親; 朋 友 不 信, 交 易 疏, nghĩa là vua tôi chẳng tin nhau, nước chẳng yên ổn; cha con chẳng tin nhau, nhà chẳng hoà thuận; anh em chẳng tin nhau, tình chẳng thân; bạn bè chẳng tin nhau, giao kết sơ.
Thánh Giáo Đức Quan Âm Bồ Tát dạy: Còn gia đình chẳng hoà thì cha con mích nhau, chồng vợ lìa tan, anh em ly tán. Còn trong lân lý chẳng hoà thì dân cư bất mục. Nước chẳng hoà thì sanh ly loạn. Còn cả thế giới bất hoà thì nhơn loại đấu tranh.
Cũng vì lòng dạ vô lương,
Đệ huynh bất mục chẳng thương đồng bào.
(Kinh Sám Hối).
不 言 而 默 宣 大 化
Bất ngôn: Không nói. Nhi: Mà. Mặc: Nín lặng. Tuyên: Làm cho rõ rệt. Đại hoá: Sinh hoá lớn.
Bất ngôn nhi mặc tuyên đại hoá là trong sự tĩnh lặng, Trời đất cứ vận hành sinh hoá cả Càn khôn Vũ trụ. Không thấy có Trời đất, nhưng không đâu là chẳng có trời đất. Trong Trời đất không có cái gì là không biến đổi luôn.
Đức Khổng Phu Tử có lần đứng trên bờ sông, ngắm dòng nước chảy mà than rằng: “Thệ giả như tư phù, bất xả trú dạ! 逝 者 如 斯 夫, 不 舍 晝 夜!”: Đêm ngày cứ chảy luôn như thế mãi! Ý của Phu tử muốn nói Đạo của Trời đất cứ lưu hành như nước chảy, không lúc nào ngừng nghỉ, chẳng nơi đâu mà không lưu hành và lưu hành trong tĩnh lặng.
Luận Ngữ cũng có câu: “Thiên hà ngôn tai! Tứ thời hành yên, vạn vật sanh yên? Thiên hà ngôn tai! 天 何 言 哉! 四 時 行 焉, 萬 物 生 焉, 天 何 言 哉!” nghĩa là Trời có nói gì đâu! mà bốn mùa đổi thay, muôn vật sinh thành, Trời có nói gì đâu!.
Nhược thiệt nhược hư,
Bất ngôn nhi mặc tuyên đại hoá.
(Kinh Cúng Tứ Thời).
不 義
Bất: Chẳng, không. Nghĩa: Đạo lý, việc theo đường lối phải,.
Bất nghĩa là không hợp đạo lý, hoặc không nhớ đến ơn nghĩa.
Trong Luận ngữ có câu: Bất nghĩa nhi phú thả quý ư ngã như phù vân 不 義 而 富 且 貴 於 我 如 浮 雲, nghĩa là bất nghĩa mà giàu và sang, đối với ta như đám mây nổi.
Thánh giáo Thầy có dạy: Cười! Thầy chẳng khi nào dụng những kẻ ấy vào nền Ðạo bao giờ. Than ôi! Tiền lớn bạc nhiều, món ngon vật quý, hay xiêu lòng phàm phu. Của bất nghĩa kẻ trần còn chẳng chịu dùng thay!
Anh chẳng nên anh em bất nghĩa,
Mừng xưa nay ví giấc tương hồ.
(Đạo Sử).
Bất: Chẳng, không. Nhơn (nhân): Đức tính hay thương người.
Bất nhơn, như chữ “Bất nhân 不 仁”, là không có tình cảm con người, không có lòng nhân, độc ác.
Trong Phương Châm Hành Đạo, Đức Quyền Giáo Tông có viết: Có người thuở nay không làm điều chi bất nhơn thất đức, cứ một lòng ở thật ăn ngay; như vậy có đủ gọi là làm lành lánh dữ không?
Hồn nào làm bất nhơn phi nghĩa,
Chịu đoạ đày nhiều phía gớm ghê.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
Đời rày hung bạo ngỗ ngang,
Lòng người bất chánh, dạ càng bất nhơn.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
不 分
Bất: Không, chẳng. Phân: Phân biệt, phân bày.
Bất phân là không phân biệt, hoặc không phân trần.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Nói cho cùng nữa nếu an ninh trật tự không có trong gia đình thượng hạ bất phân, tôi tưởng trong gia pháp loạn hàng thất thứ thì không thể nào bảo trọng nhau được.
Nhơn phẩm bất phân Tiên Phật vị,
Ðào trang thỉnh nhập cửu quyền nhiên.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Vàng thau lẫn lộn không người thổi,
Ngọc thạch bất phân thiếu kẻ trau.
(Thơ Đức Hộ Pháp).
Hay “Bất sinh bất diệt”.
Bất sanh (sinh): Không sinh ra, hay không được sinh ra. Bất diệt: Không bị mất, không chết.
Bất sanh bất diệt, như chữ “Bất sinh bất diệt 不 生 不 滅”, là một thuật ngữ chỉ về thế giới của cái Tuyệt đối, chân thực tại, gọi là “Chân như”, trong đó không có sanh không có diệt (tử), không thành, không hoại, không trước, không sau...
Trong quyển Giáo Lý của Tiếp Pháp Trương Văn Tràng có câu: Phật Giáo gọi Đạo là Chơn Như. Có câu nói rằng: "Chơn Như giả Vũ Trụ chi bản thể, nải bất sanh, bất diệt, vô thuỷ, vô chung, bất tăng, bất giảm". Nghĩa là Chơn Như là bản thể của Vũ Trụ, chẳng sanh, chẳng diệt, không trước, không sau, chẳng thêm, chẳng bớt. Tịnh thì gọi là Chơn Như, Động thì hoá dục vạn vật (chư pháp).
Coi sự đời là mộng ảo, đoạn tuyệt sự ham muốn, trừ khử vô minh để về với chân như bất sanh bất diệt.
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
不 才
Bất: Chẳng, không. Tài: Hay, giỏi, làm được việc mà người khác không làm được.
Bất tài là không có tài năng.
Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Kẻ có tài chúng ta nhìn thật quả là tài, nhưng tinh tuý tài tình kia chúng ta còn để dấu mơ hồ, chúng ta không lựa chọn người đó được. Còn người có dù bất tài, nhưng không biết chúng ta có thể nói rằng: Họ gây được nhiều cái phải, cái phải ấy chúng ta có đủ chủ quyền chuyên cho được, người ấy đã cùng sống với chúng ta, cũng chia khổ với chúng ta, gieo nơi tâm não chúng ta nhiều tình cảm, ta có thể chọn lựa được hơn người kia.
Trách kẻ bất tài mua địa vị,
Căm loài vô hạnh bán thiên lương.
(Thơ Thuần Đức).
不 才 無 用
Bất tài: Không có tài năng. Vô dụng: Không dùng vào đâu được.
Bất tài vô dụng là nói người không có tài ba gì, lại chẳng dùng vào đâu được.
Như: Những kẻ bất tài vô dụng không làm lợi ích gì cho chúng sanh.
Anh là kẻ bất tài vô dụng,
Tôi là người anh dũng tài ba.
(Thơ Hộ Pháp).
不 盡
Bất: Chẳng. Tận: Dứt, hết.
Bất tận là không dứt, còn mãi mãi.
Thánh Giáo dạy: Có vì chúng sanh mà khổ tâm hành đạo, có khó nhọc, có dãi dầu sương mơi nắng xế, mà quên bậc phẩm vô vị ở cõi trần nầy, có vày vã nẻo gai chông lần theo bước đường hạnh đức, mới có ngày vui vẻ bất tận...
Ðời vui tạm sống thừa,
Ðạo thiêng liêng bất tận.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
不 親
Bất: Chẳng, không. Thân: Thân cận, gần gũi.
Bất thân là không gần gũi, tức không thân thiết, chẳng họ hàng với nhau.
Bất thân còn có nghĩa không được tiếp xúc, gần gũi với nhau.
Sách Nho có câu: “Nam nữ thọ thọ bất thân 男 女 授 受 不 親”, nghĩa là con trai, con gái trao và nhận vật gì, không được đụng chạm tay lẫn nhau một cách thân mật.
Nam Nữ bất thân. Nam ở Ðông hiên, Nữ ở Tây hiên. Hai bên không lân cận nhau.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
不 常
Bất: Chẳng, không. Thường: Luôn luôn, hằng, không biến, không đổi.
Bất thường là không theo lệ thường, đặc biệt.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Trên cõi tạm nầy, những nỗi buồn, vui, đau khổ, nhục vinh, là những đoạn trường mà khách trần, ai cũng phải trải qua từ thanh mi chí bạch phát để nung đúc tâm hồn cho tới mức siêu nhiên và những ai đã vượt qua những cảnh bất thường ấy mà lòng vẫn minh chánh, chí vẫn thanh cao đó là những người biết sống, đáng sống và đã tìm ra con đường trở về với Ðấng Chí Tôn Thượng Ðế.
Đương cơn thiên hạ được ninh khương,
Một trận cuồng phong đến bất thường.
(Thơ Huỳnh Văn Hưởng).
不 測
Bất: Chẳng, không. Trắc: Liệu lường, đo sâu cạn.
Bất trắc là không liệu trước được. Bất trắc còn chỉ biến cố xảy đến một cách thình lình.
Huấn từ Thượng Sanh có câu: Để khi gặp cơn bất trắc, quý vị có đủ cơn sáng suốt mà đối phó với mọi trường hợp, nhứt là gìn giữ thân danh được toàn vẹn.
Vận rủi đành mang cơn bất trắc,
Năm xui phải gặp nạn thình lình.
(Thơ Thiên Vân).
不 知 世事
Bất tri: Không biết. Thế sự: Việc đời.
Bất tri thế sự là không biết đến việc đời, ý chỉ người tu hành không màng đến thế sự.
Niên ngoạt nhứt thời hữu định phân,
Bất tri thế sự thuỷ phong vân.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
不 忠
Bất: Chẳng, không. Trung: Ngay, tức hết lòng với vua, với nước.
Thuyết Đạo Hộ Pháp có đoạn: Bần Ðạo kết luận: Trung, Hiếu, Nghĩa là ba tánh chất của một vì Thánh, vì cớ nên Tiên Nho buổi trước tầm hiền thì duy lựa trong ba tánh đức đó mà tìm thì ắt tìm đặng không lầm. Tại mặt thế nầy, thảng ta có gặp người như thế tức ta quyết đoán chắc hẳn là chơn linh cao trọng, chớ không phải người hèn hạ phàm phu, trái lại, kẻ nào phi ân, bạc nghĩa, bất hiếu, bất trung, là chơn linh hạ tiện đi lần đến hoàn cảnh thú hình và thú tính mà chớ.
Phạt những kẻ sửa ngay ra vạy,
Tớ phản thầy, quan lại bất trung.
(Kinh Sám Hối).
不 韋
Lữ Bất Vi tên chữ là Lữ Hồng, người Dương Địch thuộc nước Tần, là một phú thương lại coi tướng giỏi, có vợ tên Châu Cơ, người nhan sắc, đang có thai ba tháng. Khi cháu của vua Tần là Dị Nhân còn làm con tin ở nước Triệu, Bất Vi thấy tướng biết sau này làm vua, về mưu với vợ, đem gả cho Dị Nhân, sau sinh ra một trai tên là Chính.
Nhờ mưu kế của Bất Vi, Dị Nhân được trở về Tần và sau nối ngôi vua là Trang Tương Vương, phong Bất Vi làm Thừa tướng.
Đến khi Tương Vương chết, Chính lên ngôi là vua Tần Thuỷ Hoàng Đế, tôn Bất Vi làm Tướng quốc, gọi là Trọng Phụ.
Sau Bất Vi tư thông với Thái Hậu, sợ bị tội bèn tự vẫn chết. Lúc còn làm Thừa tướng, Lữ Bất Vi có sai các môn khách soạn bộ Lã Thị Xuân Thu, còn truyền cho đến ngày nay.
Phạm Lãi gặp chầu buôn bán nước,
Bất Vi đặng buổi đổi mua duyên.
(Thơ Hộ Pháp).
Bâu là ve áo, cổ áo, phần được may dư ra ở cổ áo để gấp xuống, mỗi khi mặc.
Ca dao ta có câu: Nhìn nhau lệ ứa thấm bâu, Nỗi thương chưa dứt, nỗi sầu lại vương.
Thấy lối lành đưa qua mặt thế,
Nỗi lưu ly phận chẳng riêng bâu.
(Đạo Sử).
1.- Bầu là một loại dây leo lá mềm rộng có lông mịn, quả tròn dài hay thắt co ở giữa, dùng để nấu canh ăn.
Như: Canh bầu, bầu bí chung giàn, bầu ơi thương lấy bí cùng.
Ca dao Việt Nam có câu: Bầu ơi thương lấy bí cùng, Tuy là khác giống nhưng chung một giàn.
Bầu bí chưa ai bỏ lộn giàn,
Mình quê chưa ắt biết cao sang.
(Đạo Sử).
Vô phước chịu trồng bầu ra bí,
Chẳng khác nào mua khỉ làm chồn.
(Phương Tu Đại Đạo).
2.- Quả bầu già phơi khô, nạo hết ruột dùng để đựng nước, đựng rượu, hay đựng thuốc, cũng gọi là bầu.
Như: Đai cơm bầu nước.
Rượu cúc một bầu trăng gió hứng,
Non sông dạo khắp lối đêm xuân.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
3.- Quả bầu khô cũng được các vị Thần Tiên dùng để đựng thuốc linh đơn hay luyện thành pháp thuật, nên còn gọi là bầu linh, bầu phép hoặc hồ lô.
Như: Bầu linh đơn, bầu hồ lô.
Bầu linh khổ hải đưa thiêu cạn,
Gậy sắt nhơn sanh chống dắt dìu.
(Quyền Giáo Tông).
4.- Bầu nghĩa rộng dùng để chỉ những thứ gì giống như cái bầu dùng để chứa đựng.
Như: Bầu trời, bầu phong nguyệt, bầu nhựt nguyệt.
Hạc reo bay khắp dạo cùng,
Càn Khôn Thế Giái cũng chung một bầu.
(Bài Mừng Thay).
Nhìn non chỉ nước làm hơn,
Mượn bầu tuế nguyệt giải hờn căn sanh.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Bạn: Người không phải là thân thuộc mà giao tiếp thân thiết với nhau.
Bầu bạn, như chữ “Bè bạn”, là hai hoặc nhiều người cùng đi lại chơi thân với nhau. Như: Đi đâu anh ấy cũng có bầu có bạn, anh em bầu bạn xa gần.
Văn tế Đức Cao Thượng Phẩm của Chức Sắc Hiệp Thiên Đài có câu: Giọt sương gieo vì trăm họ khát khao, vưng Thánh chỉ rưới ban ân võ lộ, hiến thân cho Ðạo son sắc một lòng, nương bút thủ cơ tuyết sương mấy độ, đã nhiều cơn tân khổ chẳng quản đến tình nhà, dìu sanh linh từ thành thị chí thôn quê, dư mấy lúc gian truân, lần lừa theo mạch Ðạo, dẫn bầu bạn vạch đường về cội cũ.
Bầu bạn lỗi câu tín nghĩa, vợ chồng quên đạo tào khương; mãng vụ chữ kim thời mà phong dời tục đổi.
(Lời Tựa Thánh Ngôn).
Bầu: Quả bầu phơi khô dùng để đựng thuốc linh đơn hay được các vị Thần Tiên luyện thành pháp thuật. Linh: Thiêng liêng, mầu nhiệm.
Bầu linh, còn gọi bầu Hồ lô, là một trái bầu phơi khô, dùng để đựng thuốc linh đơn,hoặc được các vị Thần Tiên luyện thành pháp thuật.
Như: Bầu linh của Lý Ngưng Dương, tục gọi Lý Thiết Quả ở núi Bồng Lai.
Gươm huệ chặt rời dây nghiệt chướng,
Bầu linh chất chứa lớp sầu than.
(Bát Nương Giáng Bút).
Trút bầu linh đổ Cam lồ rưới nơi nơi,
Đưa gậy sắt dẹp sầu than cùng chốn chốn.
(Văn Tế Tiểu Tường).
Riêng che đảnh Việt bầu linh đổ,
Gặp hội phong vân đã thuận chiều.
(Thơ Cao Tiếp Đạo).
Bầu linh: Hồ lô, bầu phép thuật. Gậy sắt: Cây gậy phép của Lý Ngưng Vương.
Bầu linh gậy sắt là hai thứ pháp thuật của Lý Ngưng Dương, tục gọi là Lý Thiết Quả, một vị đại tiên trong Bát tiên ở núi Bồng Lai.
Theo Đức Hộ Pháp, Đức Quyền Giao Tông Lê Văn Trung là chơn linh của Lý Ngưng Dương, nên Bầu linh, gậy sắt cũng là pháp bửu của Đức Quyền Giáo Tông.
Bầu linh khổ hải đưa thiêu cạn,
Gậy sắt nhơn sanh chống dắt dìu.
(Thài Quyền Giáo Tông).
Bầu linh gậy sắt quảy du Nam,
Nương bóng Từ bi đến cõi phàm.
(Thơ Đức Hộ Pháp).
Bầu linh gậy sắt ông an thế,
Chày Gián Xử Ma tớ giúp đời.
(Thơ Hộ Pháp).
Bầu nước: Cái bầu đựng nước. Đai cơm: Cái giỏ đựng cơm.
Bầu nước đai cơm, bởi chữ “Đan tự biều ẩm 簞 食 瓢 飲”, tức là giỏ cơm bầu nước, ý nói đơn giản, đạm bạc trong sự ăn uống.
Bầu nước đai cơm chỉ về Nhan Uyên, người học trò giỏi của Đức Khổng Tử là người chỉ thích sống cuộc đời giản dị, không sợ khổ cực. Một giỏ cơm, một bầu nước cũng đủ làm cho Nhan Hồi vui với Đạo.
Xem: Đai cơm bầu nước.
Bầu nước đai cơm nằm chiếu đất,
Co tay làm gối đắp màn Trời.
(Thơ Thái Đến Thanh).
Bầu nước đai cơm vui thú vị,
Thung dung nhàn lạc cảnh Đào nguyên.
(Thơ Thái Quốc Thanh).
Bầu: Quả bầu già phơi khô, nạo hết ruột dùng để đựng nước, đựng rượu, hay đựng thuốc. Nhan: Nhan Uyên, học trò giỏi của Đức Khổng tử.
Bầu Nhan, hay “Bầu Nhan Uyên”, là bầu nước của Nhan Uyên, dùng để chỉ cảnh nghèo.
Do tích Nhan Uyên là người nước Lỗ, đời Xuân Thu, tự là Tử Uyên, còn gọi là Nhan Hồi 顏 回, học trò giỏi của Đức Khổng Tử.
Nhan Uyên là người thông minh, học một biết mười, lại siêng năng, cần mẫn. Nhan Uyên không ngại nghèo khổ, sống trong cảnh hàn vi mà bao giờ cũng vui với “Giỏ cơm bầu nước”.
Trong Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình Chiểu có câu: Quản bao thân trẻ dãi dầu, Mang đai Tử Lộ, quảy bầu Nhan Uyên.
Vui quảy bầu Nhan đai Tử Lộ,
Gió trăng quen thú, cảnh non Bồng.
(Thơ Cao Quỳnh Cư).
Bầu: Dùng để chỉ những thứ gì giống như cái bầu dùng để chứa đựng. Nhiệt huyết 熱 血: Chỉ người có lòng hăng hái, thích làm việc nghĩa.
Bầu nhiệt huyệt là chỉ tấm lòng hăng say thích làm những việc nghĩa.
Nặng bầu nhiệt huyết cưu mang,
Dở dang lý tưởng lỡ làng giấc mơ!
(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).
Bầu: Những cái gì giống như trái bầu dùng để chứa đựng. Phong nguyệt 風 月: Trăng và gió.
Bầu phong nguyệt, do câu thơ La Hồng Tiên viết: Thanh phong minh nguyệt nhất thi nang 清 風 明 月 一 詩 囊, nghĩa là gió mát trăng thanh thơ một túi.
Bầu phong nguyệt hay túi phong nguyệt (túi gió trăng), dùng để tả người phong lưu tài tử, chỉ mang theo người gió mát trăng thanh để làm chất liệu cho thi hứng.
Một bầu phong nguyệt say ngơ ngáo,
Đầy túi thơ văn đổ chứa chan.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Một bầu phong nguyệt say mùi thú,
Ngàn dặm quan san nhặt tiếng rìu.
(Thơ Thuần Đức).
Một bầu phong nguyệt chừ vui thú,
Hứng giọt Ma ha rải phép lành.
(Thơ Tiếp Đạo).
Bầu: Quả bầu tròn, dùng để chứa đựng các vật khác. Tiên: Thần Tiên.
Bầu tiên là cái bầu của các vị Tiên dùng để chứa rượu Tiên, thuốc linh đơn hay nước cam lộ. Ở đây, bầu Tiên dùng để chỉ bầu phép của các vị Tiên.
Cao Ðài đứng chủ cả sanh linh,
Bến khổ bầu Tiên rưới thế tình.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Bậu là tiếng gọi người tiếp chuyện với mình, khác giới tính, tỏ ý thân mật, thương mến.
Người xưa thường tự xưng là “qua”, kêu người đối thoại là “Bậu”, trong quan hệ vợ chồng hay người yêu.
Ca dao có câu: Bần gie đóm đậu sáng ngời, Lỡ duyên tại bậu, trách Trời sao nên.
Nghèo hèn xin bậu chớ than,
Rảnh đồng công mối nợ, anh mua lụa hàng may cho.
(Trích Thuyết Đạo Hộ Pháp).
Bé là nhỏ, kém, ít tuổi. Như: Quả bé, chữ bé như kiến, cá lớn nuốt cá bé, thuở bé thơ.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Từ bé Người (chỉ Nữ Đầu Sư Hương Thanh) đã để tâm ham mộ Đạo Phật không biết có quyền năng lạ lùng của Đức Chí Tôn tiền định hay chăng, mỗi khi niệm câu chú của Phật để tồn tại, thì Đức Chí Tôn Ngài đứng trong nhà Phật, gọi là Tam Thiên Đại Thiên Thế Giái, Đức Chí Tôn là Phật vị nên Bà đã thương lắm, thương một cách nồng nàn.
Lứa đôi từ bé hiệp công lo,
Phải ở sao cho trọn thiếp trò.
(Đạo Sử).
Buổi bé thơ dầu buổi vui cười,
Đừng quên miệng thốt lời tục tĩu.
(Phương Tu Đại Đạo).
Bé: Rất ít tuổi, non trẻ.
Bé bỏng là nhỏ dạy, ý chỉ bé và còn non yếu.
Như: Bàn tay còn bé bỏng, sang năm đã thêm một tuổi thì còn bé bỏng gì nữa.
Còn bé bỏng nghề nông thưa thớt,
Lại ngây ngô hời hợt việc nhà.
(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).
Bé: Non trẻ, rất ít tuổi. Thơ: Non, nhỏ.
Bé thơ chỉ đứa bé còn nhỏ và thơ dại.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Ðứa bé thơ kia học ai trước hết? Học cha mẹ nó. Trí óc non nớt của nó chưa có hình trạng gì, bởi lúc sơ sanh không có điều gì ô trược dính vào chung quanh nó, hỏi nó trông vào ai, dòm ai. Dòm cha bắt chước cha, dòm mẹ bắt chước mẹ, dòm anh em bắt chước anh em.
Hễ bé thơ tập vào bái ra chào,
Quyền cha mẹ, Trời cao kia dám sánh.
(Phương Tu Đại Đạo).
Buổi bé thơ dầu buổi vui cười,
Đừng quen miệng thốt lời tục tĩu.
(Phương Tu Đại Đạo).
1.- Bè là tre, nứa, cây gỗ ghép lại thả trôi trên mặt nước, hoặc đám cây cỏ kết lại chảy theo dòng sông.
Như: Bè gỗ, thả bè tre theo dòng nước, bè rau muống, bè lục bình tấp vào bờ.
Lúc giăng lưới khi đóng nò,
Mảng lo tàu chặn, nhẫng dò bè trôi.
(Ngụ Đời).
Nhiều cây mới kết nên bè,
Anh em chung trí đồng hè nhau tu.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
2.- Bè là lũ, phe đảng, tức một nhóm người kết với nhau. Chữ “Bè” thường dùng để chỉ một nhóm người làm việc không chính đáng.
Như: Bè lũ, bè đảng, bè du côn, bè nịnh bợ.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Chúng ta thấy một gia đình kéo cả bè về Toà Thánh là sống được. Ấy là nhờ sự chăm nom nuôi dưỡng của Hội Thánh vì khi mới về Toà Thánh có người không có một cái chén ăn cơm, làm lụng ít lâu rồi cũng sống được.
Đừng kể nể kẻ hơn người hiếp,
Xúm xích nhau chung hiệp làm bè.
(Phương Tu Đại Đạo).
Bẻ là dùng sức bằng tay làm cho rời ra, cho gãy. Như: Bẻ đôi chiếc đũa, tuổi mười bảy bẻ gãy sừng trâu.
Thánh giáo Thầy có dạy: Nếu như ai bẻ hoa ấy nửa chừng thì là sát một kiếp sanh không cho biến hoá.
Kìa cầm điểu bẻ cành kết ổ,
Nọ thú trùng moi lỗ làm hang.
(Nữ Trung Tùng Phận).
E ra nhiều thiếp nhiều hầu,
Rồi tham bẻ lựu, bỏ đào bơ vơ.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Bẻ: Bác đi, cãi lại cho là không phải.
Bẻ bai là một từ xưa, có nghĩa lả lướt, ngả nghiêng, du đương, réo rắt.
Bẻ bai còn có nghĩa là vừa chê bai vừa bắt bẻ.
Chơn thật bẻ bai ra xảo quyệt,
Trên đời kẻ dữ hoá làm lành.
(Đạo Sử).
Bẻ gãy: Làm cho đứt lìa. Chữ Đồng: Do câu “Đồng tâm kết 同 心 結” là một sợi dây thắt lưng có hai dải lụa buộc lại với nhau, dùng để ghi chép lời thề ước. Sau thường dùng để nói hai vợ chồng kết hợp cùng một lòng với nhau.
Bẻ gãy chữ đồng ý nói vợ chồng bị gãy gánh, tức một trong hai có người chết.
Đã đành bẻ gãy chữ đồng,
Hiển linh chứng chiếu tấm lòng tiết trinh.
(Kinh Thế Đạo).
Đã đành bẻ gãy chữ đồng,
Chia đôi thiếp xóm chàng đồng không hay.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Bẻ: Dùng tay làm cho rời ra, cho gãy. Liễu: Loại cây có cành mềm, lá rủ xuống thướt tha.
Bẻ liễu, do chữ “Chiết liễu 折 柳”, tức là bẻ cành liễu.
1.- Liễu là loại cây mềm yếu, thướt tha nên thường được ví với người phụ nữ.
Bẻ liễu ý nói lấy người con gái làm vợ.
Mảng trong thấm nghĩa nặng tình,
Để công bẻ liễu, bắn bình trượng phu.
(Nữ Trung Tùng Phận).
2.- Theo sách Tam Phụ Hoàn Đồ chép: Nơi Bá kiều, một chiếc cầu gần Kinh đô Tràng An, người ta đưa tiễn nhau thường đến đó bẻ liễu tặng làm roi ngựa.
Cho nên sau dùng chữ “Bẻ liễu” (chiết liễu) để chỉ sự tiễn biệt.
Đàn Văn khắng khít tự bao ngày,
Bẻ liễu bùi ngùi tiến bước nay.
(Thơ Chơn Tâm).
Trường đình bẻ liễu đau từng đoạn,
Tâm sự vò tơ cuộn một nùi.
(Thơ Chơn Tâm).
Bẽ: Thường nói bẽ mặt, tức là thẹn, ngượng, vì cảm thấy bị người ta cười chê.
Bẽ bàng là đáng phải lấy làm xấu hổ, thẹn thùng vì cảm thấy bị người ta chê cười.
E sương, ngại gió thân mòn mỏi,
Úa nhị, xàu hoa chịu bẽ bàng.
(Thơ Thuần Đức).
Đối thế bẽ bàng cơ nghiệp kém,
Theo thời ẩn nhẫn tháng ngày qua.
(Thơ Hoài Tân).
1.- Bén là sắc, dễ cắt, như gươm bén, dao bén.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Nhờ lẽ chơn thật của nó, không có lưỡi gươm bén nào trị tinh thần đặng, thì không có lực lượng nào đè nén đặng.
Giáo gươm bén nhọn tư bề,
Chém đâm máu chảy tràn trề ngục môn.
(Kinh Sám Hối).
Đừng hờn cha mạnh cú nặng đòn,
Ấy tài diệu cha trui con ra bén.
(Phương Tu Đại Đạo).
2.- Bén là bắt lửa, cháy.
Như: Bén lửa, bén hương lửa, cơm bén, lửa gần rơm lâu ngày cũng bén.
Lửa hương đã bén công Như Tử,
Quyền quý thêm xuê phận Khổng Trình.
(Bát Nương Giáng Bút).
3.- Bén còn có nghĩa là ưa nhau, hợp nhau, dính bắt lấy nhau.
Như: Cây đã bén rể, vợ chồng bén hơi, đã bén mùi mắm tôm, bén duyên.
Nghĩa keo sơn thoạt bén thoạt ưa,
Duyên kim cải càng quen càng thấm.
(Tuý Sơn Vân Mộng).
Riêng đây đã bén mùi dưa muối,
Ai đó còn nuôi chí hộc hồng.
(Thơ Thuần Đức).
1.- Bèn là mới, liền ngay sau một việc nào đó, nhằm đáp ứng một yêu cầu.
Như: Tôi giận quá bèn bỏ đi, nhìn thấy cái dáng ưng ngay bèn mua một cặp.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Bần Đạo không ngần ngại để trọn đức tin nơi quyền năng Thiêng Liêng, bèn tỏ hết công việc Đạo thì Đức Ngài (Khai Pháp) hứa và nguyện cố một đời là huỷ cái đời giàu sang vinh hiển để nạp mình tìm nơi cửa Đạo.
Chừ lâu ta mới hỏi chừng,
Sau trước nàng bèn bày tỏ.
(Tuý Sơn Vân Mộng).
2.- Bèn là tai đài, vành cánh của bông hoa.
Như: Chưng bông sen không đổ nước vào bình chừng một đêm là rã bèn.
Thơm tho là Chín phẩm Toà sen,
Sao đặng về sau núp dưới bèn.
(Thơ Bảo Pháp).
Béo là nhiều mỡ, to mập, trái với gầy.
Như: Dưỡng lợn cho béo, thừa chất béo trong cơ thể, đục nước béo cò.
Vợ tốt rượu ngon và thịt béo,
Ham ưa vật chất chẳng hề kiêng.
(Đạo Sử).
Khiến trăm mưu toan đục nước béo cò,
Lòng muôn thế đắn đo sanh chước độc.
(Giác Mê Khải Ngộ).
Bèo là một loại cây sống nổi trên mặt nước, thường làm thức ăn cho lợn, cá, hoặc làm phân xanh.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Chỗ phải Ðạo thì tới, nơi vô đạo thì lánh xa, xem công danh như dép rách, nhắm phú quý tợ bèo trôi, sắc đẹp chẳng động được lòng, cảnh nguy không thay được chí.
Dòng Tương chảy thân bèo trôi nổi,
Chẳng ai thương chữa lỗi binh lời.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Ngược gió thuyền đầy cơn gió dập,
Xuôi dòng nước lớn giạt bèo trôi.
(Thơ Thượng Sanh).
Bèo: Một loại cây sống nổi trên mặt nước. Bọt: Những đóm bong bóng nhỏ kết lại nổi trên mặt nước.
Bèo bọt là cánh bèo và bọt nước.
Bèo là loại cây trôi nổi lênh đênh trên mặt nước, không bến không bờ. Bọt nước cũng trôi trên sông, dễ tan vỡ. Vì vậy, chữ bèo bọt dùng để chỉ sự lưu lạc không định nơi và không bền bỉ.
Đòi phen lúc biến khi dời,
Thân như bèo bọt giữa vời linh đinh.
(Kinh Thế Đạo).
Mảng đeo đai hai chữ vận thời,
Như bèo bọt nổi trôi giòng khổ thuỷ.
(Phương Tu Đại Đạo).
Mảnh thi phàm đã dễ chi từ,
Trong cuộc thế thân như bèo bọt.
(Thơ Hộ Pháp).
Bèo: Loại cây nổi và trôi trên mặt nước. Tạt: Giạt, trôi nổi lềnh bềnh.
Bèo tạt là cánh bèo bị dòng nước giạt, hình ảnh này dùng để chỉ con người bị cảnh đời đưa đẩy phải chịu số phận lênh đênh không nơi nương tựa.
Xem: Hoa trôi bèo giạt.
Hỏi khách đường xưa ai lấp ngõ,
Nên thân bèo tạt vịnh sông Ngâu.
(Đạo Sử).
Bèo: Loại cây nổi và trôi trên mặt nước. Mây: Hơi nước bốc lên trời thành từng đám.
Bèo mây là bèo trôi nổi lênh đênh trên mặt nước, không bờ bến, còn mây lang thang bay trên bầu trời, chẳng bao giờ dừng lại.
Do vậy, chữ “Bèo mây” dùng để chỉ thân phận con người như cánh bèo, đám mây trôi nổi, lưu lạc, không nơi nương tựa.
Đợi buổi bèo mây vầy một hội,
Tương phùng vui cạn chén liên hoan.
(Thơ Thuần Đức).
Bèo: Loại cây nổi và trôi trên mặt nước. Nước: Vật thể lỏng, ở dưới sông, suối.
Bèo nước, ý nói bèo nổi lênh đênh, nước chảy không ngừng, dùng để chỉ thân phận con người trôi nổi, bềnh bồng, khi hợp khi tan như cánh bèo, dòng nước.
Trời già đành đoạn nợ ba sinh,
Bèo nước xẻ hai một gánh tình.
(Đạo Sử).
Bèo nước tái ngộ. do câu “Bình thuỷ tương phùng 萍 水 相 逢”, dùng để chỉ việc không hẹn tình cờ mà gặp.
Thơ Vương Bột có câu: Quan san nan việt, thuỳ bi thất lộ chi nhân? Bình thuỷ tương phùng, tận thị tha hương chi khách 關 山 難 越, 誰 悲 失 路 之 人. 萍 水 相 逢, 盡 是 他 鄉 之 客, nghĩa là quan san khó vượt, ai xót cho người bất đắc chí. Bèo nước gặp nhau, toàn là do mỗi người một nơi.
Xem: Bình thuỷ tương phùng.
Bèo nước biết chăng còn tái ngộ...?
Bồi hồi đêm nhớ với ngày thương.
(Thơ Thuần Đức).
Bèo nước: Cánh bèo và dòng nước. Tan hiệp (hợp): Khi tan ra lúc hiệp lại.
Bèo nước tan hiệp là nói cánh bèo và dòng nước khi hiệp lại, lúc tan ra, hay khi tan ra lúc hiệp lại, dùng để chỉ sự bềnh bồng, linh đinh, không có ngừng nghỉ.
Bèo nước tan hiệp ý muốn nói thân phận trôi nổi khi hợp khi tan như cánh bèo dòng nước.
Bèo nước lạ gì tan với hiệp,
Anh em nào khỏi nhớ rồi mong.
(Thơ Chơn Tâm).
Bèo: Một loại cây sống nổi trên mặt nước. Trôi: Bị nước đưa đi.
Bèo trôi là bèo bị cuốn trôi theo dòng nước, chỉ sự bấp bênh, trôi nổi, không có nơi định hướng.
Xem: Thân bèo trôi nổi.
Ngược sóng thuyền đầy cơn gió dập,
Xuôi dòng nước lớn giạt bèo trôi.
(Thơ Thượng Sanh).
Bẹo là chưng ra, đưa ra để khêu gợi, kích thích lòng ham muốn của người khác.
Như: Ăn mặc hở hang để bẹo mắt con trai, nó còn đứng lầm bầm để bẹo gan mầy.
Hình ma bóng quỷ trêu cay mắt,
Cổ quái trí tà bẹo xốn ngươi.
(Thiên Thai Kiến Diện).
Bê: Bê bết, kém đến mức tồi tệ, đình đốn, không tiến lên được. Tha: Thối tha, tức hư hỏng, truỵ lạc.
Bê tha là ham mê chơi bời, sống một cách phóng đãng, không cần thiết đến công việc, mất nhân cách.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Theo trào lưu tiến bộ của văn minh vật chất hiện tại, nhứt là trước hiểm hoạ của lằn sóng vô thần quá khích, con người dù là hạng trí thức dễ bị lôi cuốn vào cảnh bê tha truỵ lạc, hoặc bị đưa đẩy vào vòng lợi danh đen tối, làm tôi tớ cho thế lực kim tiền, bán rẻ lương tâm, không còn kể nhơn nghĩa và lẽ phải nữa.
Ví được lang quân chiều chuộng lắm,
Chữ tòng khuyên gắng chớ bê tha.
(Thơ Chơn Tâm).
Bê: Bề bộn, không dứt khoát. Trễ: Chậm, muộn, không kịp kỳ hẹn.
Bê trễ là công việc bị chậm trễ, ứ đọng lại, do không trông nom gì đến.
Thánh giáo Đức Chí Tôn trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có dạy: Phải, như các Giáo Hữu nào bê trễ về phận sự và không quản đến lời Thầy thì con hội chư Thánh dâng sớ lên cho Lý Bạch phán đoán, nghe!
Mùi đạo đức chớ ơ hờ mà bê trễ,
Cuộc thế tàn lóng nghe tiếng dế cất giọng nam ai.
(Giác Mê Khải Ngộ).
Bê trễ: Công việc bị chậm trễ, ứ đọng lại, do không trông nom gì đến. Phận sự: Phần việc thuộc trách nhiệm của một người.
Bê trễ phận sự là làm những việc thuộc trách nhiệm của mình bị trễ nãi, ứ động.
Theo Thập Hình của Đức Lý Giáo Tông, những chức sắc bê trễ phận sự bị phạm Đệ bát hình thì buộc về Toà Thánh để gần Giáo Tông và Hộ Pháp cầu học Đạo.
Đệ bát hình:
1. Bê trễ phận sự.
2. Biếng nhác.
(Thập Hình Lý Giáo Tông).
1.- Bế là ôm, ẵm, tức dùng tay đỡ và giữ người hay vật sát vào thân mình.
Như: Bồng bế, mẹ bế con vào lòng, thương mẹ thì bế lấy con.
Trong Phương Tu Đại Đạo có câu: Nâng niu con từ bé, mắt ngó chẳng mỏi tròng; dầu con đã nên mụ nên ông, cũng còn nhớ bế bồng khi bé tíu.
Đây còn nỗi bế bồng thêm trẻ,
Hễ giao tình chẳng lẽ không con.
(Nữ Trung Tùng Phận).
2.- Bế 閉 là đóng lại. Như: Bế môn tạ khách, bế quan toả cảng, bế môn tu trai.
Thánh giáo Đức Thích Ca Như Lại kim viết Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát có dạy: Vốn từ Lục Tổ thì Phật giáo đã bị bế lại, cho nên tu hữu công mà thành thì bất thành.
Bế ngũ quan, không kiêng tục tánh,
Diệt lục trần, xa lánh phàm tâm.
(Nữ Trung Tùng Phận).
閉 糴 助 荒
Bế: Bế là đóng cửa. Địch: Mua thóc ở xử ngoài mang về xứ mình (nhập cảng). Bế địch: Đồng nghĩa với bế quan, đóng ải quan, không để cho lúa gạo nhập cảng. Hoang là thất mùa lúa. Trợ hoang: Trợ giúp nạn thất mùa.
Bế địch trợ hoang ý nói dân chúng bị thiên tai mất mùa, không có đủ lúa gạo để ăn, cần phải mua lúa gạo từ nước ngoài để cứu đói, nhưng có những người có thân thế lớn làm cho việc nhập cảng gạo bị ngưng trệ để đầu cơ tích trữ, giá lúa gạo cao lên, độc quyền bán ra hầu thâu lợi.
Hành người bế địch, trợ hoang,
Thừa năm hạn đói mưu toan bức nghèo.
(Kinh Sám Hối).
閉 五 關
Bế: Khép, đóng lại. Ngũ quan: Năm giác quan.
Bế ngũ quan tức là khép lại năm giác quan của con người. Năm giác quan đó là mắt, tai, mũi, lưỡi, da thịt của thân con người.
Theo Phật, năm giác quan nầy cùng với ý của con người thì thành lục tặc, tức sáu con giặc thường quấy rối tâm con người.
Bế ngũ quan tức khép năm giác quan lại không cho năm trần cảnh là sắc đẹp, âm thanh, mùi thơm, đồ ngon, mềm mại của da thịt cám dỗ tâm con người.
Bế ngũ quan, không kiêng tục tánh,
Diệt lục trần, xa lánh phàm tâm.
(Nữ Trung Tùng Phận).
閉 塞
Bế: Đóng lại, lấp tắc lại. Tắc: Lấp, không thông.
Bế tắc là ngăn trở không được thông. Nghĩa rộng: Gặp trở ngại lớn, không có lối thoát.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Là vì cái sáng suốt thiêng liêng ở nơi mình không khêu lên lại làm cho nó lu mờ và bị vùi lấp cho đến chỗ bế tắc.
Thời cơ đang rối rắm, cuộc cờ nước nhà đã lâm vào lối bế tắc không thế thắng được.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
1.- Bề là bên, chiều, tức chỉ một trong các phía chung quanh, giới hạn phạm vi của một vật, bề dài, bề dưới.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, dạy về cách lạy, Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Lạy là gì? Là tỏ ra bề ngoài lễ kỉnh trong lòng.
Giáo gươm bén nhọn tư bề,
Chém đâm máu chảy tràn trề ngục môn.
(Kinh Sám Hối).
Bề trong ngay thẳng tỏ bề ngoài,
Miệng chánh thì đời vốn trái tai.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
2.- Bề còn dùng để chỉ khía cạnh, phương diện của sự việc. Như: Khổ cực trăm bề, lo bề nhơn đạo.
Dạy về tang lễ cho Ngài Chưởng Pháp Nguyễn Văn Tương, Thánh giáo Thầy có câu: Còn việc an táng nó, các con cũng nên lưu ý chung với nhau mà lo bề nhơn đạo của các con cho toàn.
Xong bề nhơn đạo tua gìn trước,
Trước cửa không rồi mối đạo thông.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Làm bên gái mẹ cha nghi bụng,
Sợ khó bề lấy thúng úp voi.
(Phương Tu Đại Đạo).
Bề: Khía cạnh, hay phương diện của sự việc. Thế: Sức mạnh ảnh hưởng, quyền lực.
Bề thế là quy mô, có phạm vi rộng lớn. Bề thế còn nghĩa là có thế mạnh, tức thế lực do địa vị mà có.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Thật không có chơn linh nào dưới thế gian nầy không muốn tu. Có kẻ đổ thừa tại đời sống đa đoan, nào vợ, nào con, nào của cải, nào tiền bạc, nào ruộng nương, đổ thừa thôi đủ thứ, cả đến chức tước quyền hành. Muốn tu ngặt không có bề thế tu đặng. Sự thật cũng có nhiều chơn linh muốn tu; thật tâm muốn mà không làm được.
Hễ nghèo ngặt tính ra bề thế,
Ngồi đầu đường quạt trà quế kiếm tiền.
(Phương Tu Đại Đạo).
1.- Bể là vỡ ra, rơi ra từng mảnh. Như: Bể đầu vỡ sọ.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Mỗi cái gì mình làm được dầu nó là vật vô tri vô giác, nếu có ai đập bể hoặc làm hư hao mình còn giận, còn đau đớn thay, huống chi với tình mẹ con biết bao nhiêu giá trị!
Nhàn trung kiểm điểm sự bình sanh,
Gương bể chưa ai kết đặng lành.
(Đạo Sử).
Già răng rụng cắn cơm không bể,
Dâu kiếm phương nhai thế đút mồi.
(Phương Tu Đại Đạo).
2.- Bể, cũng gọi là “Biển”, là một khoảng rộng có nước mặn trên bề mặt trái đất.
Như: Bờ bể, vẫy vùng bốn bể.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Chớ có cái hình thức rườm rà, nhảy múa lăng xăng, có khi được tiền rừng bạc bể mà hành động quá nông nổi, tinh thần lại quá kém suy, không có một phương hướng nhất định làm chuẩn đích, thử hỏi một nền Ðạo như thế có được vinh diệu và có đủ uy tín đối với đại chúng không?
Dòm lại nỗi nắng mưa sự thế,
Cảm giống nòi giữa bể sóng xao.
(Nhàn Âm Đạo Trưởng).
Bể (biển): Một khoảng rộng có nước mặn trên bề mặt trái đất. Ái: Yêu, thương.
Bể ái hay biển ái, do chữ “Ái hải 愛 海”, hoặc “Ái hà 愛 河”, là chữ của nhà Phật, dùng để chỉ tình yêu mênh mông như sông biển, làm cho người trần thế bị chìm đắm không thoát được.
Trong quyển Thiên Đạo, hai Ngài Nguyễn Trung Hậu và Phan Trường Mạnh có viết: Người minh triết là người đã đạt được Tâm hư không. Tâm hư không là dứt bỏ được phàm phu tục tánh, nguồn ân bể ái, diệt hết thất tình lục dục, được tánh Phật lòng Tiên, cư trần bất nhiễm trần, lòng trung như vầng nhựt nguyệt, dốc chí dấn thân vào sông mê bể khổ cứu vớt người ra khỏi mê tân, chẳng quản gian truân, coi sự sanh tử nhẹ như mảy lông, miễn giải thoát chúng sanh khỏi vòng hắc ám, dầu phải muôn cay ngàn đắng cũng không thối chí ngã lòng.
Nghiệt cay khéo diễn trò nhân sự,
Bể ái xui nên chẳng thuận dòng.
(Thơ Tiếp Đạo).
Nguồn ân để dấu thương nồng đượm,
Bể ái nêu gương hạnh chuốt trau.
(Thơ Thượng Tuy Thanh).
Bể bình: Bức bình phong của Đậu Nghị có vẽ hình chim sẻ để tuyển lựa chồng cho người con gái bị bể nát. Lý Uyên: Tên của vua Cao Tổ đời nhà Đường bên Trung Quốc.
Bể bình Lý Uyên ý muốn nói mối tình duyên của vợ chồng bị gãy đổ.
Do tích Đậu Nghị muốn kén chọn một chàng rể, bèn vẽ chim sẻ nơi bức bình phong, nếu ai bắn trúng vào mắt chim sẻ thì được gả con gái cho. Lý Uyên tìm đến bắn trúng đích và được vợ là nàng Đậu thị. Sau Lý Uyên lập nên nhà Đường, được tôn là Đường Cao Tổ, phong Đậu thị làm Hoàng hậu.
Cũng như thiếp nặng khối tình,
Gãy trâm Lương Ngọc, bể bình Lý Uyên.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Bể (biển): Một khoảng rộng có nước mặn trên bề mặt trái đất. Dâu: Một loài cây trồng bằng cành, lá hình tim, dùng để nuôi tằm.
Bể dâu hay biển xanh, do câu: “Thương hải tang điền 蒼 海 桑 田”, tức là biển xanh hoá thành ruộng dâu, chỉ việc thay đổi lớn lao.
Theo Thần Tiên Truyện, cứ ba mươi năm thì có một cuộc thay đổi, biển xanh hoá thành ruộng dâu.
Xem: Tang Hải hoặc Thương hải tang điền.
Thấm thoát đời qua cuộc bể dâu,
Ham vui chỉ chác cuộc mua sầu.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Buộc ràng túng tíu cõi Nam Châu,
Trị loạn vần xây cuộc bể dâu.
(Đạo Sử).
Bể (biển): Vùng nước mặn rộng lớn trên bề mặt trái đất. Hẹn: Thề hẹn, ước hẹn.
Bể (biển) hẹn, do câu “Non thề bể hẹn”, ý chỉ việc thề hẹn của đôi trai gái hay vợ chồng trước sự chứng giám của núi non và sông biển.
Khối thảm chất tràn trề bể hẹn,
Giọt đau thương quá chén hiệp phu.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Bể (biển): Vùng nước mặn rộng lớn trên bề mặt trái đất. Hoạn 宦: Làm quan.
Bể hoạn, bởi chữ “Hoạn hải 宦 海”, chỉ chốn quan trường, hay chỉ con đường làm quan.
Người xưa thường ví cuộc đời ra làm quan cũng như chiếc đò đi giữa biển cả mênh mông, gặp nhiều sóng gió gian truân. Vì thế, người ta gọi đường ra làm quan là “Biển hoạn”.
Bể hoạn trong theo làn sóng bạc,
Cánh bằng cao lướt dặm mây xanh.
(Thơ Thuần Đức).
Bể (biển): Vùng nước mặn rộng lớn trên bề mặt trái đất. Khổ: Đau đớn, vất vả.
Bể khổ, do chữ “Khổ hải 苦 海”, của nhà Phật cho rằng đời sống của con người ở thế gian do dục vọng, tham ái mà làm cho khổ não vô cùng tận, không có giới hạn nào cả, mênh mông như bể.
Kinh Pháp Hoa có câu: Ngã kiến chư chúng sinh, một tại ư khổ hải 我 見 諸 眾 生, 沒 在 於 苦 海, nghĩa là ta thấy các chúng sanh chìm ngập nơi bể khổ.
Xem: Khổ hải.
Khá từ bỏ xa dòng bể khổ,
Diệt trần tình Cam Lộ tẩy nhơ.
(Kinh Thế Đạo).
Mấy kẻ xét mình tâm tự cải,
Thân danh bể khổ mặc buông trôi.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Vui vớt sanh linh nơi bể khổ,
Vui Trời rưới khắp đủ ân Thiên.
(Đạo Sử).
Bể hẹn: Chỉ biển mà hẹn ước. Non thề: Chỉ núi mà thề nguyền.
Bể hẹn non thề, bởi chữ “Hải thệ sơn minh 海 誓 山 盟”, tức là chỉ bể mà hẹn ước, chỉ núi mà thề nguyền.
Nói việc trai gái thề nguyền, hẹn ước nhau trước núi và biển giữ mối duyên keo sơn, bền chặt.
Xem: Hải thệ sơn minh.
Sáng trưng bể hẹn tình lai láng,
Rực rỡ non thề vẻ tốt tươi.
(Thơ Thuần Đức).
Bể (biển): Vùng nước mặn rộng lớn trên bề mặt trái đất. Thánh: Thánh Hiền.
Bể Thánh, do câu “Rừng Nho bể Thánh” là chỉ cái học của Thánh Hiền ngày xưa rộng lớn như biển cả.
Ca dao ta có dâu: Rừng Nho bể thánh khôn dò, Nhỏ mà không học lớn mò sao ra.
Khuyên lòng khá niệm vài câu kệ,
Bể Thánh nghiêng tai lóng tiếng đờn.
(Đạo Sử).
Bể (biển): Vùng nước mặn rộng lớn trên bề mặt trái đất. Trần: Cõi trần, tức cõi thế gian.
Bể trần, theo như lời Phật dạy cõi trần như một cái bể khổ mênh mông mà con người bị đắm chìm trong ấy.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Ðáng kính phục là, mặc dù bực tức, nhưng nghĩ lại thương nền Ðạo, thương bao nhiêu nhơn sanh còn chịu khổ nơi bể trần, Ngài (Tiếp Pháp) cũng dần dần khuây lãng, để hết tâm trí, gắng công lo phận sự.
Xem: Biển trần.
Bể trần chua chát không nên đắm,
Mùi đạo ngọt ngào khá nếm say.
(Thơ Thông Quang).
Bễ là ống thụt dẫn không khí vào làm cho lửa lò rèn cháy rực lên, đồ dùng của thợ rèn.
Như: Thợ rèn ngồi thụt bễ, anh thợ rèn kéo bễ thổi lò, bễ lò rèn.
Chồng có tài theo phía thợ rèn,
Vợ phải tập cho quen thổi bễ.
(Phương Tu Đại Đạo).
陛
Bệ là bậc thềm cao lót bằng gỗ, xây bằng gạch hay bằng đá, dùng đặt tượng Phật, bàn thờ hay để ngai vua.
Như: Bệ thờ Phật, vua ngự trên bệ ngọc, bệ rồng, bệ hạ, bệ kiến, chín bệ.
Biên cương buổi nọ Tàu lui gót,
Chín bệ ngày nay quỷ nhảy đầm.
(Đạo Sử).
Nghĩa khí đã lừng trên chín bệ,
Ân uy còn tạc dưới ba quân.
(Thơ Đào Công).
Bệ: Chỗ cao để thờ, để tượng, hoặc để ngai vua ngồi. Ngọc: Châu ngọc.
Bệ ngọc, bởi chữ “Ngọc giai 玉 階” tức bực thềm cao bằng ngọc, chỉ ngôi vua ngự.
Trong Tôn giáo Cao Đài, bệ ngọc dùng để chỉ ngôi Chí Tôn hoặc chỉ nơi cao quý và sang trọng.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Người tại sao sanh ra nằm trên đống vàng, giàu có sang trọng, thong dong, còn người đẻ ra trong cảnh hàn vi cơm không đủ bữa, còn người đẻ ra ngồi trên ngai vàng bệ ngọc, người lại đẻ ra nơi xó bếp chuồng gà.
Hai lẽ văn tài đồng đức tánh,
Chẳng ngồi bệ ngọc cũng lầu son.
(Đạo Sử).
Nhượng vinh huê trong buổi sang giàu,
Khuyên học khách ăn rau chê bệ ngọc.
(Phương Tu Đại Đạo).
1.- Bên là cạnh, gần, kề. Như: Đứng bên nhau, hắn ngồi kề bên tôi, nhà gần bên.
Thánh giáo Thầy dạy Bà Đường Thị (Đái Thị Huệ) có đoạn: Vậy, con phải tuân lịnh Thầy mà lập thành Nữ phái. Nghe và tuân, Thầy hằng ở bên con, lo chung cùng con. Con chớ ngại.
Bên mình sầu vướng khá âu lo,
Bước nhọc đường gay gắng chí dò.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Nếu ôm ấp một bên thương nhớ,
Bịnh tương tư khó gỡ cho kham.
(Nữ Trung Tùng Phận).
2.- Bên là phía, nói đằng nọ đối với đằng kia. Như: Bên tả bên hữu, bên Phật bên Tiên, hai bên đều có lợi.
Thánh giáo Thầy có câu: Như kẻ bên Phật giáo hay tặng Nhiên Ðăng là Chưởng giáo, Nhiên Ðăng vốn sanh ra đời Hiên Viên Huỳnh Ðế.
Hai lẽ một đàng tà với chánh,
Bên thì làm dữ phía làm lành.
(Đạo Sử).
Làm bên gái mẹ cha nghi bụng,
Sợ khó bề lấy thúng úp voi.
(Phương Tu Đại Đạo).
1.- Bến là chỗ bờ sông, thường có bậc lên xuống để lấy nước hoặc tắm giặt.
Như: Giặt quần áo dưới bến sông, làm thân con gái mười hai bến nước.
Mùi thế xưa còn lằn bụi trược,
Mạch sầu nay rửa bến sông hương.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
2.- Bến là chỗ quy định cho tàu thuyền, xe cộ dừng lại để hành khách lên xuống hay xếp đỡ hàng hoá.
Như: bến tàu, bến xe, bến đò ngang.
Triết lý tôn giáo cho rằng đời là sông mê bể khổ, nên đời còn được gọi là bến tục, bến khổ, bến mê, trái với đời thì có bến phạm, bến giác.
Thánh giáo Chơn Cực Lão Sư có câu: Ðấng Chí Tôn, vì thương dân tình nơi đây, đã khổ tâm gieo Ðạo, đem chiếc thuyền cận bến để dìu dắt vào chỗ bình địa đặng tự tại thung dung, mà vì chưa hiểu thấu căn nguyên, khổ bao giờ trông thoát?
Chờ cho trễ bước thuyền xa bến,
Bến tục thoát vòng hết ước mơ.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Đuốc huệ rạng soi đường tấn hoá,
Thuyền từ nhẹ tách bến luân hồi.
(Thơ Tiếp Đạo).
Bến: Chỗ bờ sông, nơi đậu của tàu thuyền. Giác 覺: Biết rõ, không mê muội.
Bến giác, bởi chữ “Giác ngạn 覺 岸” là bờ giác.
Theo Phật, hai bên bờ biển khổ, bên này là bờ mê, bên kia bến giác. Bến giác, cũng như bờ giác, là nơi đi đến của những người giác ngộ hay đắc Đạo, chỉ cõi Thiêng liêng Hằng Sống.
Chú trọng sanh linh gìn Thánh thể,
Nhắm ngay bến giác gắng lần mò.
(Thơ Võ Thành Lượng).
Nền nhân đã đặt nhiều viên gạch,
Bến giác từng xây lắm nhịp cầu.
(Thơ Huệ Ngàn).
Bến: Chỗ bờ sông, nơi đậu của tàu thuyền. Khổ: Cực, đau đớn, vất vả.
Bến khổ là cái bến của “Biển khổ” (Khổ hải 苦 海), nơi có đầy dẫy những sự phiền não, khổ đau, dùng để chỉ cõi trần, cõi của nhơn loại đang sống.
Theo Phật, muốn thoát khỏi bến khổ phải lấy trí tuệ (Bát nhã) làm con thuyền đưa sang bờ giác.
Thánh giáo Chí Tôn có câu: Công chỉ dẫn của Thầy phải lững đững theo giọt thuỷ triều, mà rồi rốt cuộc lại, bến khổ cũng chưa xa, ngôi xưa còn lánh mãi. Thảm thay! Tiếc thay!
Cao Ðài đứng chủ cả sanh linh,
Bến khổ bầu Tiên rưới thế tình.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Bến khổ trương buồm thuyền đợi khách,
Non Tiên trở cánh hạc chờ xuân.
(Thanh Tâm Tài Nữ).
Nhẫng vơ vẩn vào ra bến khổ,
Trước mặt xem những chỗ sầu than.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Bến khổ: Bờ bến của biển khổ, chỉ thế gian. Đường mê: Con đường dẫn đến nơi mê muội, lầm lạc, chỉ cõi trần.
Bến khổ đường mê là một thành ngữ chỉ cõi trần, nơi đầy dẫy sự khổ đau và lầm lạc.
Bến khổ đường mê vẫn cứ tìm vào mà làm cho biển trần chẳng biết bao nhiêu chìm đắm.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
Bến: Chỗ bờ sông, nơi đậu của tàu thuyền. Mê: Mờ ám, mất trí khôn.
Bến mê, dịch nghĩa từ chữ “Mê tân 迷 津”, là tiếng nhà Phật, chỉ cảnh giới lầm lạc, mê muội của chúng sanh.
Thánh Giáo Thầy có câu: Trời Nam may đặng một yếng sáng của Ðấng Ðại Từ Ðại Bi dẫn khách trần bước lần ra con đường hắc ám, để tránh khỏi bến mê, dụng nâu sồng thế cân đai, mượn khổ tâm thay chung đỉnh, lấy hạnh đức làm nấc thang bước lên tột lừng Trời, vẹt ngút mây xanh, trông vào cảnh thiên nhiên, biết rõ cơ mầu nhiệm mà làm khách u nhàn thanh nhã, núi thẳm rừng xanh.
Xem: Mê tân.
Đừng gìn thân ái nghĩa nhân,
Xôn xao thoát khổ xa lần bến mê.
(Kinh Tận Độ).
Bến mê rước khách thuyền đương đợi,
Đưa đến đào nguyên hưởng phước lành.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Còn sống đâu quên nhiệm vụ còn,
Bến mê độ khách tạc lòng son.
(Thơ Huệ Giác).
Bến: Chỗ bờ sông, thường có bậc lên xuống để lấy nước hoặc tắm giặt. Nước: Chỉ dòng sông.
Bến nước, do tục ngữ có câu: “Gái mười hai bến nước, trong nhờ đục chịu” để ví thân phận người con gái như con thuyền, nổi lênh đênh giữa biển xã hội mênh mông, đang tìm những bến nước ghé đậu.
Nếu may gặp bến nước trong thì hưởng sự tốt đẹp, nếu rủi gặp bến nước đục thì phải chịu lắm điều nhọc nhằn khổ cực.
Xem: Mười hai bến nước.
Bến nước gái mơ màng trong đục,
Đếm mười hai hoạ phúc khó lừa.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Bến nước khéo dò cơn sóng lượn,
Lòng thuyền may chọn cánh buồm trương.
(Thơ Hàn Sinh).
Bến: Nơi thuyền bè, xe cộ đậu, dừng lại để hành khách lên xuống xếp đỡ hàng hoá. Phạm: Phật.
Bến Phạm là bến vào cửa Phật, ý chỉ cửa chùa, hoặc dùng để chỉ nơi tu hành.
Chiếc bá linh đinh thả giữa vời,
Thôi tìm bến Phạm đậu an nơi.
(Thất Nương Giáng Bút).
Ngán thay cái kiếp con người,
Thôi đành bến Phạm kiếm lời Phật răn.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Bến: Nơi thuyền bè, xe cộ đậu, hay dừng lại để hành khách lên xuống xếp đỡ hàng hoá. Tục: Chỉ thế gian.
Bến tục là bến vào cõi tục, chỉ cõi thế gian.
Theo triết lý Phật giáo, cõi trần tục là một biển khổ, bên này bờ là “Bến tục” hay bến mê. Muốn thoát khỏi biển khổ, con người phải có trí tuệ. Trí tuệ được xem như con thuyền Bát nhã, đưa con người từ bến tục sang qua bên kia là bờ giác ngộ.
Bến tục, bến trần hay bến mê đều dùng để chỉ cõi trần tục.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Ðạo Trời qua bến tục, đường Thánh dẫn khách trần, nếu chẳng biết thế thời, giọt nhành dương hết chờ khi rưới khổ đặng.
Xem: Bến mê.
Chờ cho trễ bước thuyền xa bến,
Bến tục thoát vòng hết ước mơ.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Thuyền chờ bến tục buồm trương sẵn,
Ðưa đến nguồn trong rửa bợn sầu.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Bến: Chỗ bờ sông, nơi đậu của tàu thuyền. Tương: Sông Tương.
Bến Tương tức bến sông Tương.
Bến Tương, bởi chữ “Tương Giang 湘 江”, chỉ sự thương nhớ giữa trai và gái, hay sự ly biệt giữa đôi lứa.
Do tích trong “Tình Sử” đời nhà Châu, Lương Ý yêu chàng Lý Sinh, sau phải xa nhau, nên có làm bài thơ “Tương Giang” (Sông Tương).
Xem: Sông Tương.
Chim lìa đảnh hạc bay ngơ ngáo,
Chiếc nhạn kêu thu đến bến Tương.
(Đạo Sử).
Bến: Chỗ bờ sông, nơi đậu của tàu thuyền. Thánh: Tiếng tôn xưng hàng Thánh.
Bến Thánh như chữ “Bến giác”, là bến của các chơn linh giác ngộ, đạt vào hàng Thánh.
Phật ví bên này biển khổ là bờ mê, thuyền Bát nhã (Trí tuệ) đưa qua bên kia là bến giác hay “Bến Thánh”.
Lần lựa cho đò xa bến Thánh,
Thánh tâm mấy kẻ vẹn trau thân.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Bến: Chỗ bờ sông, hoặc nơi đậu tàu thuyền xe cộ. Trần: Cõi trần, tức cõi của người sống đang ở.
Bến trần là cõi trần, tức cõi thế gian.
Phật giáo cho rằng con người sống nơi trần gian phải chịu vòng tứ khổ sinh, lão, bịnh, tử và nước mắt chúng sanh nhiều hơn nước bốn biển, nên cõi trần đước ví với biển khổ. Muốn qua khỏi biển khổ thì chúng sanh phải nhờ thuyền Bát nhã (trí tuệ) đưa từ bến trần còn gọi là bến mê, qua bờ giác (bến giác).
Nghĩa bóng: Bến trần chỉ cõi trần, cõi thế gian.
Gặp chiều nhạn trở về rừng trước,
Ðợi lúc thuyền nương lánh bến trần.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Thuyền khơi đợi gió lướt dòng ngân,
Dẫn khách Nam qua khỏi bến trần.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Đủng đỉnh thuyền sen ghé bến trần,
Cam lồ để mái giọng cao ngân.
(Bát Nương Giáng Bút).
Bền là vững chắc, có thể giữ nguyên được lâu, không biến đổi, không suy yếu.
Thánh giáo đức Tiêu Sơn Đạo Sĩ có câu: Hiệp Thiên Ðài là gốc Ðạo mà chẳng trọn phần cho chư chúng sanh tin cậy thì Ðạo một ngày kia thế cũng chẳng bền ở nơi tâm trí của cả người hành đạo, mạnh được yếu thua, khác nào một trò đời vô vị. Nên khéo tính cho lắm.
Vòng trần chìm nổi từ đây dứt,
Công quả tua bền độ chúng sinh.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Bền: Vững chắc, dùng được lâu ngày.
Bền bỉ là chịu đựng được mọi nặng nhọc, khó khăn và được lâu dài.
Thánh giáo Thầy có câu: Thầy có thế dùng hai con đặng đắp vun nền Ðạo, cứu vớt sanh linh, nhưng đức tín ngưỡng biết có đặng tròn, sự dày công chịu khó vì nhơn sanh biết có đặng bền bỉ chăng?
Chỉ có cách đó mới có thể kềm giữ nhơn loại trong tình yêu sanh chúng và đem lại cho con một cuộc đời hoà bình bền bỉ.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
Bền: Vững chắc, kéo dài lâu, sức bền. Công: Nỗi vất vả, làm nên công việc.
Bền công là ra công một cách bền bỉ, tức làm việc không bỏ dở, không chán nản.
Như: Tu hành phải bền công rèn tập tâm hạnh.
Bền công kinh sách xem coi,
Vô can sát mạng thiệt thòi rất oan.
(Kinh Sám Hối).
Trong giá trắng ngần, khá chuốt trau,
Bền công chặt giữ mới anh hào.
(Thơ Thiên Vân).
Bền: Vững chắc, dùng được lầu ngày. Chặt: Không rời nhau, khó tách nhau.
Bền chặt là chặt chẽ và bền lâu, không thể tách rời, không thể phá vỡ.
Pháp Chánh Truyền Chú Giải có câu: Luân hồi chuyển kiếp là cơ mầu nhiệm để cho các chơn hồn đặng cứu chuộc và tấn hoá, nếu truất bỏ cơ mầu nhiệm ấy đi, thì Đạo nơi nào mà bền chặt?
Keo sơn gắn bó luôn bền chặt,
Duyên phận an vui mãi trọn lành.
(Thơ Hoài Tân).
Bền: Vững chắc, kéo dài lâu, sức bền. Chí: Ý quyết làm một việc gì.
Bền chí là giữ vững được ý chí, không thay đổi, không nao núng trước những khó khăn, trở ngại.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Lẽ tự nhiên là ngọc có giồi thì ngọc mới sáng, người có học mới rõ thông Ðạo lý. Trên đường Ðời cũng như trong cửa Ðạo, nhờ có sự bền chí kiên tâm, người hiếu học mới đi đến mức thành công mỹ mãn.
Ai ai bền chí mà tu,
Phước đem đổi tội cho phu dễ gì?
(Giới Tâm Kinh).
Hữu duyên độ thấu nguồn chơn đạo,
Tu niệm khuyên bền chí chớ lay.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Gìn lòng tu niệm cho bền chí,
Bồng đảo ngày nay đặng hiệp vầy.
(Đạo Sử.).
Bền: Vững chắc, kéo dài được lâu. Dạ: Lòng dạ.
Bền dạ, cũng như “Bền lòng”, là giữ vững được tinh thần, ý chí, trước sau như một, không thay đổi.
Điếu văn của Ngài Hiến Đạo, Đại diện Hội Thánh Hiệp Thiên Đài đọc trước Liên đài Đức Thượng Sanh có câu: Trải bao nhiêu năm dài đăng đẳng, Ðạo có những lúc thăng trầm, những hồi biến cố, những cơ thử thất, Ðức Ngài vẫn giữ một niềm tin tưởng mãnh liệt, bền dạ sắt son, trước sau như một.
Bền dạ tua thìn trau đạo Thánh,
Ra công khá gắng đắp nền nhân.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Bền: Vững chắc, kéo dài được lâu ngày. Gan: Một bộ phận trong ngũ tạng, chỉ lòng dạ, sự bạo dạn.
Bền gan, như chữ “Bền dạ”, là giữ vững được lòng dạ, không nao núng, không đổi thay trước việc khó khăn, trở ngại.
Đồng nghĩa với chữ “Kiên gan”.
Gắng chí tập lần thân cực nhọc,
Bền gan tu luyện mới là nên.
(Đạo Sử).
Hay tánh giúp cô đôi lúc chịu,
Nhọc thân chẳng quản cứ bền gan.
(Đạo Sử).
Bền: Vững chắc, kéo dài lâu. Giữ: Không để cho mất, cho hư, cho hỏng.
Bền giữ, như chữ “Chặt giữ”, là gìn giữ cho bền chặt.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Ta sống một trăm tuổi có nghĩa gì đâu? Ví như mỗi phen có một đám xác đi qua, thì dường như người quá cố nhắc nhở ta một điều gì? Người chết ấy nói với ta rằng: Tôi đi đây là đến cảnh thiệt, còn quý ngài ở lại đó là cảnh giả đa nghe! Phải sáng suốt đặng phân thiệt giả, mới bền giữ cơ nghiệp thiêng liêng, chớ đời sống phàm gian là một khổ hải đa nghe!
Viết thử Thiên thơ với nét trần,
Hầu sau bền giữ nghiệp Hồng Quân.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Tình chung bền giữ một đời,
Chia cơm cắn muối không dời lòng thương.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Bền: Vững chắc, kéo dài được lâu. Lòng: Lòng, dạ.
Bền lòng là lòng bền bỉ, tức giữ vững được tinh thần, ý chí, trước sau như một, không hề thay đổi.
Thánh giáo Thầy có câu: Nhà nghèo, hạnh tốt, ấy là gương treo dạy đời, các con khá bền lòng son sắt, cái hạnh tốt là thang vạch ngút mây xanh, tâm thành là để giồi trau tánh tục, lòng đạo đức quý hơn là miếng đỉnh chung, tố bần hàn tuỳ mình mà hành đạo thì công quả ấy trổi hơn hạng thượng lưu đó các con.
Bền lòng thiện niệm bồi căn trước,
Trễ bước thuyền e bị ngược dòng.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Út eo nhưng hiểu giữ bền lòng,
Trinh liệt thờ chồng đã gắng công.
(Đạo Sử).
Khuyên bền lòng tùng thế tuỳ thời,
Phải quyền biến với đời gầy sự nghiệp.
(Phương Tu Đại Đạo).
Bền: Vững chắc, có thể kéo dài lâu. Sức: Khả năng hoạt động, làm việc, tác động hay chịu tác động đến đâu.
Bền sức là sức lực có thể chịu đựng được bền bỉ, lâu dài trong lúc hoạt động hay làm việc.
Ðường dài vó ngựa tua bền sức,
Sức yếu lòng người khéo để gương.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Bền: Chắc, kéo dài được lâu ngày. Tâm: Lòng.
Bền tâm, như chữ “Bền lòng” là không ngã lòng, không sờn lòng, trước sau như một, không thay đổi.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Ðã trải qua con đường thử thách, quý vị nên bền tâm ẩn nhẫn chờ qua khỏi khúc quanh nguy hiểm tức nhiên con đường sẽ trở nên ngay thẳng thuận tiện hơn.
Gắng chí tập lần thân cực nhọc,
Bền tâm tu luyện mới là nên.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Cửa Phạm bền tâm tìm xá lợi,
Đường trần quyết chí phủi đai cân.
(Thơ Phạm Mộc Bổn).
Bền: Chắc, kéo dài được lâu ngày. Vững: Chắc chắn, khó lay chuyển.
Bền vững là chắc chắn không lay chuyển được.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Nếu thế gian dữ thì thế nào đặng bảo toàn, còn mong mỏi gì đặng bền vững. Cá nhân dữ thì thế nào bảo toàn tánh mạng.
Biển đổi, non dời đời phải tuyệt,
Ðức cao bền vững khó cân lường.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Chứa đức kia bền vững không ngằn,
Con cháu hưởng lâu bằng Trời Đất.
(Phương Tu Đại Đạo).
病
Bệnh hay “Bịnh” là đau ốm, tức cơ thể hoặc các bộ phận trong cơ thể hoạt động không bình thường, như bệnh thương hàn, bệnh tương tư.
Như: Bệnh nặng, bệnh truyền nhiễm, bệnh hay lây, bệnh lâu ngày người ốm yếu.
Khổ bệnh thấy trêu người đã quá,
Buổi vãng sanh giục giã kêu hồn.
(Nữ Trung Tùng Phận).
病 院
Bệnh: Đau ốm, tức cơ thể hoạt động không bình thường. Viện: Nơi, cơ sở.
Bệnh viện là cơ sở khám bệnh và nhận người đau ốm nằm điều trị.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Bệnh viện nầy dùng cho chư thiện tín, phần nhiều ở giai cấp vô sản, khi lâm bịnh có nơi chỗ nằm điều trị khỏi tốn kém. Công việc kiến thiết này sắp được thực hiện và toàn thể Ðạo hữu sẽ được chung hưởng cái đặc ân của Quốc Trưởng trong ngày gần đây.
Than ôi! Ngài vào bệnh viện lần nầy là lần chót trong đời của Ngài.
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
Bếp là dụng cụ để đun nấu, hay chỗ đặt lò lửa để đun nấu. Như: Bếp than, nhóm bếp, nhà bếp.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Chúng ta được sống trong vòng đạo đức nghĩa nhơn dưới bóng yêu thương của Ðức Chí Tôn Ðại Từ Phụ, một đời sống của kẻ lánh giả tầm chơn, tuy đạm bạc trong bữa muối dưa nhưng nồng nhuộm nét trong sạch thanh cao, chúng ta thử ngó lại ngoài mặt xã hội còn biết bao nhiêu người xấu số cơ cực bần hàn, bếp trưa vắng khói, áo mỏng đêm đông, vất vả lầm than, mưa chiều nắng sớm, không được một lời an ủi, không một ý nghĩa về kiếp sống thừa, thì cái đau khổ về hình thể lẫn tinh thần của hạng người ấy mới thật là đáng thương xót.
Học hỏi chưa thông ngoài chái bếp,
Nhẫng lo cỡi phụng với đua tranh.
(Đạo Sử).
Nỗi nhà, nỗi bếp, nỗi lân,
Nỗi trong thân tộc, nỗi gần, nỗi xa.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Cơn sản sanh bếp lửa nồi xông,
Nuôi con dại, vợ bồng, chồng dắt.
(Phương Tu Đại Đạo).
Bếp: Lò, dụng cụ để đun nấu, gian nhà làm nơi đặt bếp để nấu ăn.
Bếp núc là lò, bếp, tức chỉ nơi nấu ăn. Bếp núc còn dùng để nói chung về việc nấu nướng.
Như: Nơi bếp núc phải giữ gìn sạch sẽ, việc bếp núc là bổn phận của đàn bà.
Vào bếp núc chỗ nhơ không kể,
Phơi áo quần chẳng nể Tam quan.
(Kinh Sám Hối).
Nhà vẻn van giữ sạch nơi nơi,
Trong bếp núc trách nồi đậy điệm.
(Phương Tu Đại Đạo).
Bêu là nêu lên cho mọi người trông thấy.
Như: Tội phạm bị chém bêu đầu trước ải, anh ấy đi bêu xấu bạn bè với mọi người.
Lục Nương chị ngựa bêu cứu nước,
Quân nghịch thù mua được thiêu thân.
(Lục Nương Giáng Bút).
Nét gia phong cửa Khổng để bêu gương,
Phương hoá chủng học đường ra huấn giáo.
(Văn Tế Bảo Đạo).
悲
Bi 悲 là thương, không dùng một mình.
Như: Ai bi, lòng từ bi của Đức Phật, hoàn cảnh anh ấy thật là bi đát, xem dung nhan cô ấy quá bi thảm.
Ðại bi chẳng quản một phần riêng,
Thấp thỏi phàm tâm chác dạ phiền.
(Đạo Sử).
悲 怛
Bi: Buồn thảm, thương xót, đáng thương. Đát: Thương xót (không dùng một mình).
Bi đát là thương xót, tức ở trong tình trạng hết sức đau khổ, đáng thương tâm.
Bài Tuyên dương công nghiệp Bà Hương Hiếu trong cuộc lễ Tấn phong Nữ Đầu Sư, Đức Thượng Sanh có câu: Bà chỉ còn một mảnh thân bơ vơ cô độc trong tình cảnh não nùng bi đát, để rồi khi nắng sớm mưa chiều, lúc canh tàn đêm lụn, Bà không thể ngăn được giọt thảm đầm đìa để khóc chồng, khóc con và khóc mẹ.
Cảnh nhà bi đát trăm bề,
Chắc là khó giữ lời thề với nhau.
(Thơ Thiên Vân).
悲 歡
Bi: Thương xót, đau đớn. Hoan: Vui vẻ.
Bi hoan là đau đớn và vui vẻ lẫn lộn, tức nói cảnh buồn vui thay đổi.
Như: Kiếp sống của con người ai cũng từng trải qua những nỗi bi hoan trong đời.
Tuy đã hiểu mạng căn hữu số,
Cuộc bi hoan ly hiệp nỗi đau lòng.
(Văn Tế Đốc Học).
悲 劇
Bi: Buồn thương, đau đớn, xót xa. Kịch: Trò diễn ra trên sân khấu.
Bi kịch là vỡ kịch kết thúc bằng sự đau thương. Bi kịch còn có nghĩa là cảnh éo le, trắc trở, đau thương.
Trong Giảng Đạo Chơn Ngôn, Phối Sư Thái Đến Thanh có câu: Than ôi, phong hoá suy tồi, nhơn-luân điên đảo, lòng người quỷ quái ngậm xương nòi giống, xé thịt lẫn nhau, hằng ngày xảy ra những tấn tuồng thảm thương bi kịch xem thôi mỏi mắt, nghe đã nhàm tai, những người có tấm lòng bác-ái từ-bi, cũng phải ngậm-ngùi khổ tâm than trách.
Hằng ngày diễn ra nhiều tấn tuồng thảm thương, bi kịch, xem thôi mỏi mắt, nghe đã nhàm tai, khiến cho giọt lụy thương tâm của khách ưu thời mẫn thế không thể nào ngưng được.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
悲 傷
Bi: Thương, không dùng một mình. Thương: Đau đớn xót xa.
Bi thương là thương xót đau đớn. Như: Lời hát rất bi thương, nỗi bi thương thể hiện trên vẻ mặt.
Trải dài nỗi nhơ mênh mông,
Niềm đau héo hắt tiếng lòng bi thương...!
(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).
悲 智 勇
Bi: Lòng thương xót của các Đấng Thiêng Liêng. Trí: Sự sáng suốt, thông hiểu rốt ráo cái lý của sự vật để không còn mê muội, lầm lẫn nữa. Dũng: Có tinh thần mạnh mẽ, dám vượt qua những khó khăn, nguy hiểm, hoặc chiến thắng những cám dỗ của dục vọng.
Bi trí dũng là ba thể tánh của Đức Chí Tôn hay các Đấng Phật, Tiên, Thánh.
Trong các chùa bên Phật giáo, thường thờ ba pho tượng, gọi là Di Đà Tâm Tôn (hay Tam Thể Phật):
Đức Phật A Di Đà ngồi chính giữa, tượng trưng cho sự sáng suốt, tức là Trí.
Đức Quan Âm Bồ Tát ngồi bên mặt, tượng trưng cho sự thương yêu, tức là Bi.
Đức Đại Thế Chí Bồ Tát ngồi bên trái, tượng trưng cho ý lực, tức thể Dũng.
Trong Đạo Cao Đài, thờ Đức Tam Trấn Oai Nghiêm cũng là thờ Bi, Trí, Dũng:
Đức Quan Âm Như Lai tượng trưng thể Bi.
Đức Lý Đại Tiên Trưởng tượng trưng cho Trí.
Đức Quan Thánh Đế Quân tượng trưng cho Dũng.
Là Bi, Trí, Dũng đưa người sáng,
Hà tất đeo vòng mệnh cúc cung.
(Thơ Thanh Hương).
1.- Bí là một loại cây mọc leo hay bò, cùng họ với bầu, quả dùng để nấu canh ăn.
Như: Nấu canh bí đao, trà bí đao, bầu bí chung giàn.
Ca dao Việt Nam có câu: Bầu ơi thương lấy bí cùng, Tuy là khác giống nhưng chung một giàn.
Bầu bí chưa ai bỏ lộn giàn,
Mình quê chưa ắt biết cao sang.
(Đạo Sử).
Vô phước chịu trồng bầu ra bí,
Chẳng khác nào mua khỉ làm chồn.
(Phương Tu Đại Đạo).
2.- Bí 秘 là giấu kín, không để cho ai biết.
Như: Bí pháp, bí tích, bí mật, bí truyền chơn pháp, thế giới huyền bí.
Trong Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Đáng lẽ theo cổ truyền Bí Pháp là huyền bí không thể gì truyền một cách rõ ràng được.
Dời đổi nhiệm mầu do máy Tạo,
Hiệp tan huyền bí tại Khuôn linh.
(Thơ Thái Đến Thanh).
秘 密
Bí: Kín đáo, không để cho ai hay biết. Mật: Chẳng để lộ ra ngoài.
Bí mật là những điều giữ rất kín, không để lộ ra ngoài, hoặc vật được giữ kín.
Thánh Giáo Thầy có câu: Hại thay! Nếu chẳng có cơ mầu nhiệm bí mật ấy thì chẳng thành Luật. Nếu chẳng thành Luật. Thế nào thành Ðạo? Cười.
Màn bí mật tay kia đã nắm,
Lợi danh hay ngăn cấm bước đường tu.
(Thái Bạch Giáng Bút).
Rằng muốn tỏ tường cơ bí mật,
Phương nào rõ thấu phép tiên tri.
(Thiên Thai Kiến Diện).
秘 法
Bí: Giấu kín, không hé ra cho ai biết, Thần bí, huyền bí. Pháp: Pháp luật, giáo lý, phương thức.
Bí pháp là những phương pháp bí mật, những pháp thuật bí ẩn hay những định luật vô hình làm chi phối sự tiến hoá của các chơn linh trong Càn khôn Vũ trụ, hay nói khác đi là những sự mầu nhiệm ẩn dấu ở trong, không ai biết được cả.
Như vậy, bí pháp là cơ quan giải thoát chúng sanh, tức những phương thức luyện đạo của một tôn giáo, để thoát khỏi vòng luân hồi khổ não, cứu giúp linh hồn mà mục đích cuối cùng là đắc đạo, đạt được phẩm vị Thần Thánh Tiên Phật nơi cõi thiêng liêng.
Bí pháp là những phương pháp luyện đạo không được phổ biến ra ngoài, chỉ được bí truyền cho đệ tử có hạnh đức. Các phương pháp ấy được truyền trực tiếp từ thầy sang trò, nên gọi là khẩu thọ tâm truyền hay tâm pháp bí truyền.
Bần đạo vâng lịnh Đức Chí Tôn xuống trần mở đạo thì Đức Chí Tôn có hỏi rằng: Con phục lịnh xuống thế mở đạo, con mở bí pháp hay là mở thể pháp trước?
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
秘 法 心 傳
Bí pháp: Những phương pháp bí mật, những pháp thuật bí ẩn hay những định luật vô hình làm chi phối sự tiến hoá của các chơn linh trong Càn khôn Vũ trụ, hay nói khác đi là những sự mầu nhiệm ẩn dấu ở trong, không ai biết được cả. Tâm truyền: Truyền thẳng vào tâm.
Do Bí pháp là những phương pháp luyện đạo giấu kín không được phổ biến ra ngoài, chỉ được bí truyền cho đệ tử có hạnh đức mà thôi. Các phương pháp ấy được các vị Tổ truyền trực tiếp từ tâm thầy sang tâm trò, nên gọi là “Bí pháp tâm truyền” hoặc “Tâm pháp bí truyền”.
Xem: Tâm pháp.
Luận qua bí pháp tâm truyền,
Cho đời rõ thấy Ðạo Huyền cao siêu.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
秘 跡
Bí: Giấu kín, không hé ra cho ai biết, Thần bí, huyền bí. Tích: Dấu vết.
Bí tích là dấu tích bí mật.
Bí tích, đồng nghĩa với chữ “Bí pháp”, là những pháp thuật nhiệm mầu, khi thi hành sẽ có những hiệu quả huyền diệu mà ta không thể dùng trí phàm hiểu biết được.
Trong Đạo Cao Đài, Đức Hộ Pháp có truyền cho các vị chức sắc Cửu Trùng Đài, Hiệp Thiên Đài, hay Phước Thiện bảy phép Bí tích để cứu độ nhơn sanh về phần xác và phần hồn tại các địa phương.
Bảy Bí tích đó là: 1.- Phép Tắm Thánh. 2.- Phép Giải Oan. 3.- Phép Hôn Phối. 4.- Phép Giải Bịnh. 5.- Phép Xác. 6.- Phép Đoạn Căn. 7.- Phép Độ Thăng.
Thầy có cho phép con cầu đạo và mọi phép bí tích chi chi cho mẹ T. chăng?
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
1.- Bì là ví, sánh, có thể bằng được. Như: Học giỏi không ai bì, bì sao được với anh ấy.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Nếu phận còn nét chưa rồi, lương tâm chưa đặng yên tịnh thì phải biết cải quá, rán sức chuộc lấy lỗi đã làm, thì các con có lo chi chẳng bì bực Chí Thánh.
Tử sanh, sanh tử là chi?
Gẫm trong giấc mộng cũng bì như nhau.
(Kinh Thế Đạo).
Tôn kỉnh thầy cũng bì cha trẻ,
Mới đắc truyền mọi lẽ cao sâu.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Lời sai khiến lòng đừng sanh nạnh,
Lịnh mẹ cha Thần Thánh cũng không bì.
(Phương Tu Đại Đạo).
2.- Bì 皮 là da, chỉ lớp ngoài, ý muốn nói việc phụ thuộc, không đáng quan trọng.
Như: Phần cốt chúng ta phải lo trước, còn phần bì thì từ từ sẽ làm sau.
Chức Sắc chọn quyền hơn chọn Đạo,
Nhơn sanh lo cốt chẳng lo bì.
(Thanh Sơn Đạo Sĩ).
1.- Bỉ 彼 là bên kia, kẻ kia, vật kia, trái với thử 此 là bên nầy, người nầy, vật nầy.
Như: Không phân biệt bỉ thử, bỉ sắc tư phong, thuyền từ vượt qua bỉ ngạn.
Sông sâu nước chảy gắng dò,
Đường qua bỉ ngạn sẵn đò chực đưa.
(Thơ Thông Quang).
2.- Bỉ 鄙 là quê mùa, hủ lậu, thô tục.
Như: Bỉ tiện, kẻ nghèo hèn thường bị xem là bỉ lậu, con người anh ấy thật là thô bỉ.
Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Bởi biết nó là chúa cả hình ảnh của quyền trị thế tương lai, nó là thầy thiên hạ đặng trị thế, nếu không trọn vẹn, nó lưu lại kiểu vở thô bỉ nhơ nhớp, thì không thế gì làm thầy thiên hạ đặng.
Giữa cơn náo loạn trỗi cầm,
Lấy hơi hoà nhã dẹp lần bỉ thô.
(Nữ Trung Tùng Phận).
彼 岸
Bỉ: Bên kia. Ngạn: Bờ.
Bỉ ngạn là bờ bên kia, là cái chỗ thoát ly hẳn được phiền não của đời mà được chính quả của đạo.
Phật thường ví bên này sông là bến mê, bên kia sông là bờ giác. Thuyền bát nhã chính là trí tuệ của con người có thể đưa người từ bến mê qua bờ bỉ ngạn.
Bát nhã đưa người qua bỉ ngạn,
Phước linh rước khách đến Thiêng liêng.
(Thơ Thông Quang).
Biển khổ khách trần bơi ngược nước,
Thuyền từ bỉ ngạn lướt xuôi dòng.
(Thơ Thái Đến Thanh).
Bỉ 鄙: Quê mùa, hủ lậu, thô tục hèn hạ.
Bỉ ổi là xấu xa, hèn hạ, có tư cách đáng khinh.
Như: Bộ mặt trông bỉ ổi, hành động bỉ ổi, tâm địa anh ấy rất bỉ ổi.
Trái lại, một Chức sắc có hành động bỉ ổi, không phải riêng đương sự bị tiếng xấu, mà tất cả Chức sắc đều chung chịu lời chê biếm nhẽ.
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
否 極
Bĩ: Thời vận xấu, hay hoàn cảnh gặp lúc rủi ro. Cực: Cùng cực.
Bĩ cực là vận hết sức xấu, tức cái rủi ro, long đong xảy đến một cách cùng cực.
Điếu văn Ngài Hiến Đạo đọc trước Liên Đài Đức Thượng Sanh có đoạn: Rất may thay! Khi nên Trời cũng chìu người, Ðức Ngài mạnh dạn đứng ra cứu vãn tình thế rối ren, vẹt lối chông gai, đánh tan đám mây mù, chuyển hoạ vi cường, Ðạo mới qua khỏi cơn bĩ cực.
Nín nẩm chờ qua cơn bĩ cực,
Thìn lòng chúng có lượng đôi thoi.
(Cao Hoài Ân Giáng).
Hay “Bĩ thái”.
Bĩ thới, như chư “Bĩ thái 否 泰”, là quẻ bĩ và quẻ thái.
Theo nguyên lý Dịch học, trời đất giao hoà thông suốt với nhau gọi là thái, nếu không giao thông được như thường gọi là bĩ.
Vận số con người bị xấu gọi là bĩ, vận số tốt gọi là thái. Hai chữ “Bĩ thái” dùng để nói về vận số khi cùng khi thông, lúc suy lúc thịnh.
Tác hiệp sẵn nhờ xây bĩ thới,
Thành song trước định gặp thư hùng.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển)
Nhơn vật đổi thay hồi bĩ thới,
Nước non qua khỏi lối khuynh nguy.
(Thơ Cao Liên Tử).
被
Bị 被 là mắc phải. Như: Bị mất cắp, bị tai nạn.
Thánh giáo Thầy có câu: Chơn thần là gì? Là nhị xác thân (périsprit), là xác thân thiêng liêng. Khi còn ở nơi xác phàm thì rất khó xuất riêng ra đặng, bị xác phàm kéo níu.
Ấy vì lòng dạ chẳng ngay,
Giết người lấy của bị nay hình nầy.
(Kinh Sám Hối).
Bền lòng thiện niệm bồi căn trước,
Trễ bước thuyền e bị ngược dòng.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Bị đè dưới núi Ngũ Hành, ý chỉ Tề Thiên Đại Thánh bị Ngũ Hành Sơn đè kẹt dưới hốc đá.
Theo truyện Tây Du Ký, con Thạch hầu nhờ có phép thất thập nhị huyền công nên lộng hành nơi Đông Hải Long Vương và dưới Âm Phủ. Để chiêu dụ Đức Thượng Đế tạm phong cho chức Bậc Mã Ôn, nhưng Thạch Hầu không chịu, tự xưng là Tề Thiên Đại Thánh.
Thượng Đế cũng chấp thuận, sai Thiên sứ phong cho chức Tề Thiên Đại Thánh. Kể từ nhận được chức Đại Thánh, Tề Thiên càng ngày càng lộng hành, nào là hái đào tiên, trộm linh đơn, chống lại với Thiên binh Thiên tướng, khiến cho Đức Thượng Đế phải nhờ Phật Tổ ở cõi Tây Phương dùng thần thông mà đè Tề Thiên Đại Thánh dưới núi Ngũ Hành Sơn.
Trên hành lang nơi Báo Ân Từ có vẽ một khuôn hình ghi sự tích: “Núi Ngũ Hành đè Tề Thiên”.
Bị đè dưới núi Ngũ Hành,
Chừng nghe tiếng nổ tạo thành Ngũ Lôi.
(Báo Ân Từ).
被 告
Bị: Mắc phải, phía bị người khác kiện. Cáo: Báo, trình, tố giác.
Bị cáo là người bị thưa ra Toà án và bị Toà quyết định đưa ra xét xử.
Bị cáo, đối với người Nguyên cáo 原 告 là người đi thưa trước Toà.
Khi nào có Toà Tam Giáo Cửu Trùng Đài xử đoán rồi mà người bị cáo còn uất ức, hàm oan thì mới kêu nài đến Toà Tam Giáo Hiệp Thiên Đài.
(Pháp Chánh Truyền CG).
Bia: Tấm đá, khắc tên. Danh: Tên.
Bia danh là người chết đi, tên tuổi còn truyền lại mãi mãi cho đời sau gọi là bia danh.
Thời xưa có những lối văn như bi ký 碑 記 hay bi minh 碑 銘 dùng để khắc vào bia để kỷ niệm hoặc nói đến tiểu sử hay công nghiệp lưu lại cho đời sau, đó gọi là văn bia là một hình thức lưu truyền tiếng tăm về sau.
Hớn trào Quan Thánh bia danh,
Trung can nghĩa khí háo sanh giúp đời.
(Xưng Tụng Công Đức).
Đã toan lãnh phận kiếm cung,
Đường tên mũi đạn để dùng bia danh.
(Xuân Hương Giáng Bút).
Bia: Tấm đá khắc tên. Tạc: Xoi, đục vào gỗ đá.
Bia tạc là tên tuổi được khắc sâu vào tấm bia đá để ghi công nghiệp. Nghĩa bóng lưu truyền lại tên tuổi.
Đức Chí Tôn dạy về bia tạc trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển như sau: Ðiều cần nhứt là mỗi đứa đều lưu tâm ráng lo việc Thánh Thất cho hoàn toàn, mỗi đứa để chút ít gan tấc vào đó. Ấy là nơi bia tạc tên tuổi của các con về sau, để soi gương dìu đàng hậu tấn.
Hạnh đức điểm tô non nước Việt,
Muôn năm bia tạc tiếng còn ghi.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Hiếu trung tròn vẹn đời bia tạc,
Nhân nghĩa gồm xong bậc chí thành.
(Lý Đại Tiên Giáng).
碧 宮
Hay “Bích Du”.
Bích Cung hay “Bích Du” là một cái cung của Thông Thiên Giáo Chủ, cầm đầu phái Triệt giáo.
Vào thời Phong Thần các vị Thần Tiên xuống núi để lập bảng Phong thần gồm có hai phái: Xiển giáo là những người đầy đủ đức hạnh đều thành chánh quả, là chánh Đạo, Triệt giáo là tả Đạo, gồm các vị đệ tử của Thông Thiên Giáo Chủ, là những bậc hoá nhân, thiếu hạnh đức nên phần nhiều đắc vị Thần.
Do vậy Bích Cung, Bích Du, hay Động Bích dùng để chỉ Triệt giáo hay chỉ Tà Đạo.
Thương người lạc bước lỡ đường,
Tìm chơn Cung Tốt, lạc đường Bích Cung.
(Thất Nương Giáng Bút).
Bích Du là tên một cái cung của Thông Thiên Giáo Chủ, cầm đầu phái Triệt giáo trong thời phong thần.
Bích Du dùng để chỉ Triệt giáo là tả Đạo, gồm các vị đệ tử của Thông Thiên Giáo Chủ, là những bậc hoá nhân, thiếu hạnh đức nên phần nhiều đắc vị Thần.
Xem: Bích cung.
Bích Du ví đã ra gây loạn,
Đẩu Tốt phải toan đứng trị bình.
(Đức Quyền Giáo Tông).
貶
1.- Biếm là chê bai. Như: Bao biếm (khen chê).
Thánh giáo Lý Giáo Tông có dạy:Lão phạt cả Chức Sắc Nữ phái một tuần cấm phòng, còn Hiền Muội thì Lão biếm quở, vì không lo dạy dỗ điều đình, song cho thăng lên Chánh Phối Sư cho có quyền sửa trị Nữ phái, nhưng mà buộc còn phải tùng lịnh Ðầu Sư.
Hơn thua trối mặc đời bao biếm,
Nửa kiếp dầu qua hết lấn chen.
(Đạo Sử).
Xuân Thu bao biếm rõ ràng,
Trung Dung luận thuyết bảo toàn thánh tâm.
(Thơ Huệ Phong).
2.- Biếm là bị giáng chức hoặc đuổi ra cho làm quan một nơi, truất ngôi.
Như: Biếm trích (Giáng chức và đuổi ra làm quan một nơi xa), biếm truất (Cách chức và đày đi), bị biếm ra cõi ngoài.
Không biết vì cớ gì Đức Chí Tôn đã định cho Ngô Văn Chiêu làm Giáo Tông của Đạo, Đức Chí Tôn biểu may Thiên Phục Giáo Tông và may rồi trong 10 ngày lại thôi, Ngô Văn Chiêu bị biếm vậy.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
3.- Biếm là đè xuống, đè ép.
Ðứa thì mê tài, đứa thì ham cận sắc, đứa bị biếm vào lối lợi quyền, đứa bị xô vào nơi thất đức.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
Biếm: Chê bai. Nhẻ: Nói xỏ xiên nhau.
Biếm nhẻ là châm biếm, mỉa mai, nhạo báng, có lời lẽ gây khó chịu nhằm vào nhược điểm của người khác.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Thầy lại thấy nhiều đứa chưa hiểu thấu huyền diệu là gì, bị người chê, rồi về còn biếm nhẻ nữa. Phải nghịch chánh lý chăng?
Mặc kẻ thường tình ngu biếm nhẻ,
Phải coi nên chỗ để nên lời.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Phi thị dầu ai lời biếm nhẻ,
Những mong đem oán đổi làm ân.
(Thơ Thuần Đức).
邊 隘
Biên: Chỗ giáp giới giữa hai nước. Ải: Cửa ải.
Biên ải là ải quan ở nơi biên giới, tức là chỗ đất hiểm trở giáp giới giữa hai nước.
Như: Đan áo gửi ra biên ái cho chồng.
Thương người giá lạnh ngoài biên ải,
Chinh phụ ngồi đan áo gởi chồng.
(Thơ Chơn Tâm).
Súng rền biên ải trời xơ xác,
Hoa lộng thành đô, nét mỹ miều.
(Thơ Hoài Tân).
邊 疆
Biên: Chỗ giáp giới giữa hai nước. Cương: Đất đai được giới hạn của hai quốc gia.
Biên cương là chỉ đất đai giáp nhau giữa hai nước.
Biên cương đồng nghĩa với các từ: Biên cảnh 邊 境, Biên thuỳ 邊 陲, hay Biên giới 邊 界.
Kìa Chí Tôn Cao Đài đương ngự,
Rưới hồng ân chặt giữ biên cương.
(Kinh Thế Đạo).
Biên cương buổi nọ Tàu lui gót,
Chín bệ ngày nay quỷ nhảy đầm.
(Đạo Sử).
Trước quốc chánh chia hai tộc chủng,
Núi Hoành sơn định phỏng biên cương.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Biên: Ghi vào sổ sách. Chép: Sao lại, ghi lại.
Biên chép là ghi chép vào sổ sách.
Thánh giáo Thầy có câu: Thầy cũng ghe phen muốn phạt những kẻ lấy bực phẩm của phàm mà gây nên rối rắm trong Ðạo, nhưng chẳng nỡ. Chúng nó đã bị Thần Thánh biên chép, ngày chung cuộc sẽ liệu tội phát lạc mà thôi.
Mỗi việc nghị định đều biên chép để lại đành rành, sau khỏi điều dị nghị.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
邊 廷
Biên: Nơi giáp giữa hai nước, như biên giới. Đình 廷: Triều đình.
Biên đình là đất của triều đình, nơi đó là chỗ giáp giới giữa triều đình với một quốc gia khác.
Dặm vó Ký kỳ xông gió buộc,
Đài mây cù cá thoát biên đình.
(Bát Nương Giáng Bút).
Xem dường cuồng khấu biên đình,
Cung dâu tên cỏ, nước mình chấn hưng.
(Nữ Trung Tùng Phận).
編 撰
Biên: Ghi chép vào sổ sách. Soạn: Làm ra, như soạn một vở tuồng, một tác phẩm...
Biên soạn là viết hay soạn thành một tác phẩm, một vở tuồng hay một bạn nhạc.
Như: Biên soạn giáo lý cho nề Đại Đạo.
Giáo Lý Cao Đài thất ức niên,
Trương Quân biên soạn để lưu truyền.
(Thơ Thượng Sanh).
Biết bao khó nhọc công biên soạn,
Lưu dấu ngàn năm chí nhiệt thành.
(Thơ Huệ Giác).
邊 塞
Biên: Nơi giáp giới giữa hai nước, như biên giới. Tái: Cửa ải, như quan tái.
Biên tái là cửa ải ở nơi biên giới. Như: Phóng ngựa chảy thẳng ra biên tái.
Lạnh biên tái sương rơi tuyết đổ,
Lực rợ Phiên hùng hổ chiến cơ.
(Phù Kiều Hận Sử).
邊 城
Biên: Chỗ giáp giới giữa hai quốc gia. Thành: Bức tường cao xây bao bọc để phòng thủ một đô thị.
Biên thành là thành trì nơi biên giới, tức là chỗ đất hiểm trở giáp giới giữa hai nước.
Xem: Biên ải.
Dập dìu khói nhạt phủ biên thành,
Sương dệt trời thu lụa mỏng manh.
(Thơ Hoàng Nguyên).
邊 陲
Biên: Chỗ giáp giữa hai nước. Thuỳ: Biên giới.
Biên thuỳ là chỗ đất biên giới giữa hai nước.
Nói về Đại Minh Hồng Vó, Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Ông Đại Minh Hùng Võ nghe tin đó cấp thời gởi ra ngoài biên thùy đòi Trấn Bắc Tướng Quân về, rồi bị tụi nó xàm tấu không biết chừng đòi cấp thời đây, đòi về đêm ngày sợ gian thần sủng nịnh nó tâu vô tâu ra sợ về mang hại nó mới đồ mưu làm để ổng nằm trong cái hòm rồi đệ tờ sớ nói ổng chết, nó dặn ổng nếu nhược bằng như yên thì Ngài sống lại, không yên chúng tôi chở Ngài về biên thùy.
Biên thùy binh cách còn đe doạ,
Quốc nội chủ quyền lắm đổi thay.
(Thơ Hộ Pháp).
Trận tuyến danh lừng vang bách tướng,
Biên thuỳ tiếng hý giục tòng quân.
(Thơ Hoàn Nguyên).
變
Biến có nghĩa là vụt mất đi, hoá đi, có hoá không, không hoá có, hoặc việc xảy ra trái với sự thường.
Như: Chạy biến đâu mất, nước biến thành hơi, bình tỉnh khi gặp biến.
Thánh giáo Đức Thích Ca Mâu Ni Phật có câu: Chư sơn đắc đạo cùng chăng là do nơi mình hành đạo. Phép hành đạo Phật giáo dường như ra sái hết, tương tợ như gần biến Tả Ðạo Bàng Môn.
Tang thương đã biến cuộc hầu gần,
Bắc Hải rồi sau lại hoá sân.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Bởi kiếp nhơn sanh bày biến dữ,
Nên Trời xuống phước vớt con hư.
(Đạo Sử).
變 故
Biến: Những việc xảy ra trái với lẽ thường. Cố: Cớ.
Biến cố là những việc xảy ra có tác động đến đời sống con người.
Lời Trần Thuyết của Ban Tốc Ký có viết: Nhìn vào lịch sử, những vụ “Phần Thư”, những vụ chiếm đoạt thư tịch đã xảy ra như một hệ luận trước những biến cố.
Trải bao nhiêu năm dài đăng đẳng, Ðạo có những lúc thăng trầm, những hồi biến cố, những cơ thử thất.
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
變 轉
Biến: Thay đổi, hoá đi. Chuyển: Lay động từ chỗ này đến nơi khác.
Biến chuyển là thay đổi, tức là biến đổi sang một trạng thái khác.
Thánh Giáo Lý Giáo Tông dạy Hộ Pháp có câu: Hèn lâu Lão không đến chuyện vãn cùng nhau đặng, một là vì không cơ bút, hai là vì Thiên thơ biến chuyển, Lão có đến cũng chẳng ích gì.
Biến chuyển Trời Nam cuộc đảo huyền,
Trả vay cho sạch vết oan khiên.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Quyền do đức giáo dân quy thiện,
Mặt huyền linh biến chuyển đạo mầu.
(Nhàn Âm Đạo Trưởng).
變 易
Biến: Thay. Dịch: Đổi.
Biến dịch là sự thay đổi.
Dịch lý có câu: Dịch cùng tắc biến, biến tắc thông, thông tắc cửu 易 窮 則 變, 變 則 通, 通 則 久, nghĩa là biến dịch đến cùng thì biến, biến ắt thông, thông thì dài lâu. Nhờ sự biến dịch mới có Đạo.
Đạo là Trời đất cứ xoay vần mãi mãi, hết xuân đến hạ, dứt thu qua đông, trăng tròn rồi khuyết, hết ngày tới đêm, ấy là sự biến dịch của âm dương, có biến dịch, âm dương mới có sinh hoá, có sinh hoá mới có Đạo. Đạo pháp mới lưu hành mãi không bao giờ dứt, đem ánh sáng soi tỏ rạng khắp nơi, tựa như nhựt, nguyệt chiếu ngời vạn vật.
Vạn sự chung quy đều biến dịch,
Thiên nhiên đào thải luật do Trời.
(Thơ Huệ Ngàn).
Biến: Thay đổi. Đổi: Thay thế cái nầy cho cái kia.
Biến đổi là thay đổi thành khác với trước đây.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Con khá giữ mực thẳng mà đi cho cùng bước Ðạo. Ấy là tri Thiên mạng đó. Cuộc biến đổi đau đớn ở thế tình, chẳng qua là do Thiên thơ định đoạt.
Nỗi phận, nỗi nhà còn biến đổi,
Thương mình khá nghĩ phận mình xưa.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Sang hèn biến đổi mây năm sắc,
Vinh nhục đầy vơi nước một dòng.
(Thơ Thuần Đức).
變 形
Biến: Thay đổi. Hình: Hình ảnh, hình thức.
Biến hình là thay hình dạng, hoặc thay đổi hình thức.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Người hay sợ ma là tại sao? Vì họ thấy hình ảnh của khí chất biến hình, năng minh năng ẩn, mà sự ẩn hiện ấy lấy làm lạ và trái với mắt phàm thường thấy, nên làm cho họ sợ.
Nguyện lời nói biến hình bác ái,
Nguyện chí thành sửa máy tà gian.
(Kinh Thế Đạo).
Kìa lóng non Kỳ reo tiếng phụng,
Nầy xem nước Lỗ biến hình lân.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
變 化
Biến: Thay đổi. Hoá: Thay đổi, trở thành.
Biến hoá là biến đổi thành ra cái khác, tức là sang một trạng thái hoặc một hình thức khác.
Biến hoá còn dùng để chỉ có thành không, không thành có.
Thánh giáo Thầy có câu: Cái sống của cả chúng sanh, Thầy phân phát khắp Càn khôn Thế giới, chẳng khác nào như một nhành hoa trong cội, nó phải đủ ngày giờ Thầy nhứt định mới trổ bông và sanh trái đặng trồng nữa, biến hoá ra thêm.
Ví bằng ai hỏi sao bao nả?
Rằng trẻ noi sau biến hoá già.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
Thánh đức còn mong ngày biến hoá,
Chơn thành hồn thượng há phai mòn.
(Đạo Sử).
變 化 無 窮
Biến hoá: Biến đổi thành ra cái khác, tức là sang một trạng thái hoặc một hình thức khác. Vô cùng: Không dứt.
Biến hoá vô cùng là nói Đạo Trời thiên biến vạn hoá, không cùng không tận.
Theo Lão Tử, Đạo sinh ra trước Trời đất và là nguồn gốc sinh ra muôn vật (Đạo giả vạn vật chi áo). Chính vì thế, Đạo lúc nào cũng phải biến hoá và biến hoá mãi mãi.
Theo Chu Liêm Khê, “Nhị khí giao cảm, hoá sinh vạn vật, vạn vật sinh sinh nhi biến hoá vô cùng yên. 二 氣 交 感, 化 生 萬 物, 萬 物 生 生 而 變 化 無 窮 焉”, nghĩa là sự vật trong thế giới lúc nào cũng biến đổi, vũ trụ chẳng khác gì một dòng sông lớn, những lượn sóng cứ xê dịch trôi mãi mãi. Đạo Trời theo sự vật cũng phải biến hoá vô cùng vô tận. Sở dĩ Đạo có biến hoá là do hai khí âm dương giao cảm nhau mà hoá sinh muôn vật, muôn vật sinh rồi lại tiếp tục sinh nữa, cho nên cuộc biến hoá trở nên vô cùng.
Biến hoá vô cùng,
Lũ truyền bửu kinh.
(Kinh Cúng Tứ Thời).
變 亂
Biến: Biến hoá, thay đổi. Loạn: Loạn lạc.
Biến loạn là sự rối loạn không thường xảy ra trong xã hội, tức là biến đổi đột ngột có tính bạo động xảy ra trong xã hội.
Thánh giáo của Đức Tôn Sơn Chơn Nhơn trong Thánh Ngôn Sưu Tập có câu: Bần tăng thường đến gần các em, còn nỗi biến loạn nước nhà là do nơi tình thế biến chuyển, cũng bởi Thiên thơ đó thôi.
Đời càng biến loạn, nhiệm vụ người hành Đạo càng nặng nhọc.
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
變 權
Biến: Biến hoá, thay đổi. Quyền: Phương tiện dùng trong lúc biến.
Biến quyền, do chữ “Quyền biến 權 變”, tức là ứng phó linh hoạt khi có biến, khi có việc bất thường xảy ra.
Dầu gặp cơn lạt mắm tèm hem,
Phải biết chước biến quyền khi túng tíu.
(Phương Tu Đại Đạo).
Vợ dữ nên gắng chí cho bền,
Tìm phương thế biến quyền dạy dỗ.
(Phương Tu Đại Đạo).
Đời Đạo muộn vẹn nét hồn nhiên,
Chung sức vì dân lúc biến quyền.
(Thơ Huệ Giác).
變 生
Hay “Biến sinh”.
Biến sanh hay “Biến sinh”, là biến hoá mà sinh ra.
Trong Càn khôn Vũ trụ, không có một vật nào mà không biến sanh. Sự chuyển sanh, biến kiếp đều do khí Âm Dương, Ngũ hành hợp lại mà nên thể chất và trưởng thành. Tức là muôn vật hay con người từ lúc hình thành trong thai bào, cho đến khi ra đời tạo nên thân xác, thể chất, lúc nào cũng đều nhờ Âm Dương, Ngũ hành mà sinh hoá. Mãi đến khi hình hài mãn kỳ sinh thọ thì thể xác là vật chất sẽ tiêu tan, các yếu tố đó lại trở về với bản chất tự nhiên của nó, để rồi lại chuyển hoá ra một hình thể khác nữa. Tóm lại mọi vật lúc nào cũng phải biến sanh.
Những vạn vật Âm Dương tạo hoá,
Dầu cỏ cây hoa quả biến sanh.
(Kinh Tận Độ).
Thiên cung xuất Vạn linh tùng pháp,
Hiệp Âm Dương hữu hạp biến sanh.
(Phật Mẫu Chơn Kinh).
Hay “Biến tạo chân thần”.
Biến tạo: Biến hoá mà tạo ra. Chơn (chân) thần: Một thể do Phật Mẫu tạo ra, được gọi là Đệ nhị xác thân.
Biến tạo Chơn thần, như chữ “Biến tạo Chân thần 變 造 真 神”, ý nói Đức Phật Mẫu dùng Âm dương nơi lò hoá sanh tạo ra Chơn thần.
Chơn Linh do Chí Tôn ban cho và Chơn thần được Phật Mẫu tạo ra mới phối hợp với nhục thân, tức là thân hình hài xác thịt của cha mẹ nơi cõi trần sinh ra để thành một con người ở phàm gian.
Khi chết, Chơn linh, Chơn thần mới xuất ra khỏi thân xác, con người chỉ còn lại cái cái xác chết, tức là thân tứ đại, chờ ngày tan rã.
Âm Dương biến tạo Chơn thần,
Lo cho nhơn vật về phần hữu vi.
(Tán Tụng Công Đức).
變 相
Biến: Thay đổi, không thường. Tướng: Trạng mạo.
Biến tướng là hình trạng không thường, tức hình dạng có sự thay đổi.
Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông dạy: Ấy Lão ngồi đợi chư hiền hữu chư hiền muội thành công rồi chờ Thiên thơ biến tướng mà định phẩm cho mỗi người.
Ít hiện tượng vào phần tưởng tượng,
Phép hồi quang biến tướng hữu hình.
(Thiêng Liêng Hằng Sống).
變 身
Biến: Thay đổi, không thường. Thân: Thân thể.
Biến thân là biến hoá xác thân khác.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Thầy có câu: Người gọi Quan Âm là Nữ Phật tông, mà Quan Âm vốn là Từ Hàng Ðạo Nhân biến thân. Từ Hàng lại sanh ra lúc Phong Thần đời nhà Thương.
Tinh Quân thọ sắc thuở Phong Thần,
Cho đến Ðường Triều mới biến thân.
(Đạo Sử).
變 體
Biến: Thay đổi, không thường. Thể: Hình thái, hoặc hình thức.
Biến thể là hình thể đã biến đổi đi ít nhiều so với hình thể gốc trước kia.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Dưới tiềm lực yêu thương, những gì đắng cay đều biến thành dịu ngọt, những sự đau khổ sẽ biến thể thành nguồn lạc hoan.
Nhân loại phải chịu đau khổ vì sự biến thể của các Thánh Tông đồ.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
變 遷
Biến: Thay đổi. Thiên: Thay đổi, dời đi nơi khác.
Biến thiên là sự vật biến hoá mà thay đổi.
Thuyết Đạo Hộ Pháp có đoạn: Vả chăng Chí Tôn đến lập Đạo Cao Đài, chẳng cần nhắc đi nhắc lại mấy Anh mấy Chị cũng hiểu nghĩa là Ngài đến lập Đền Thờ cao trọng của Ngài tại mặt thế này, mấy anh mấy chị đã thấy tấn tuồng bi kịch của Đời nó đã biến thiên đảo ngược, cái sống của toàn cầu là sống trong đường danh nẻo lợi, chẳng phải nhơn nghĩa là gì, chỉ có đạo, chẳng phải là Ngài biểu chúng ta làm cho cả loài người phải hiển Thánh hiển Thần, mà trái lại chỉ thay thế cho Ngài giáo hoá nhơn luân, chỉ đạo cho họ là đủ, rồi do cái công nghiệp ấy để tự Ngài định vị cho mình.
Cơ sanh hoá Càn Khôn đào tạo,
Do Âm Dương hiệp đạo biến thiên.
(Kinh Thế Đạo).
1.- Biền là bãi lầy ở ven sông, khi thuỷ triểu lên thì toàn bộ bị ngập nước.
Như: Đi kháng chiến vào vùng bưng biền, ruộng bưng ruộng biền.
Đạo Cao Đài giờ phút này nó bị 12 phái ở Hậu Giang hiệp nhứt, ở bưng biền kháng chiến vì Quốc Sự đó.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
2.- Biền 駢 hay “Biền ngẫu 駢 偶”, là một lối văn gồm những cặp câu có hai hoặc nhiều vế đối nhau, như phú, chiếu, biểu...
Biền theo cận thể tức là lối “Tứ lục”.
Văn chương vẫn gói bao tâm huyết,
Sự nghiệp còn lưu mấy thể biền.
(Thơ Hàn Sinh).
Biệt: Không để lại dấu vết, hoặc tin tức gì.
Biền biệt là không thấy hình bóng, hoặc không để lại tin tức gì cả.
Như: Đi biền biệt, tin tức cứ biền biệt.
Lòng thiếp băn khoăn từng khắc lậu,
Tin chàng biền biệt ở phương nao.
(Thơ Thuần Đức).
1.- Biển, như chữ “Bể”, là vùng rất rộng trên mặt địa cầu có chứa nước mặn.
Như: Nước biển, tàu thuyền vượt biển, công ơn cha mẹ như trời biển.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Thầy có câu: Biển đương lặng, Trời đương thanh, dễ chi sóng khoả nước nhăn, mây ùn non bạc.
Xem: Bể.
Biển đổi, non dời, đời phải tuyệt,
Ðức cao bền vững khó cân lường.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Phong Thần đừng tưởng chuyện mờ hồ,
Giữa biển ai từng gặp Lão Tô?
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
2.- Biển 扁 là một khuôn gỗ hình chữ nhựt, hay ván đóng khung, dùng đề những câu gì do vua ban cho hoặc tự làm ra để treo giữa nhà, trước bàn thờ hay trước cửa hàng.
Như: Biển đề chữ ở các Đền miếu, biển treo ngoài cửa hàng, tranh biển.
Nhớ lại, khi Bần Ðạo đi ngoài Quy Nhơn, gặp một ông già tên là ông Sáu Chèo, vì ông bán chèo nên mọi người kêu như vậy, vô nhà nhìn thấy bàn thờ ông bà không có treo tranh biển gì hết...
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
Hay “Bể ái”.
Biển ái, do chữ “Ái hà 愛 河”, là chữ của nhà Phật, dùng để chỉ tình yêu mênh mông như sông biển, làm cho người trần thế bị chìm đắm không thoát được.
Bài kệ chuỗi bên Phật có câu: Ái hà thiên xích lãng, Khổ hải vạn trùng ba. Dục thoát luân hồi khổ, Tảo cấp niệm Di Đà 愛 河 千 尺 浪, 苦 海 萬 重 波. 欲 脫 輪 迴 苦, 早 急 念 彌 陀. Dịch vần: Sông yêu ngàn thước sóng, Biển khổ muôn lượn qua. Luân hồi mong vượt thoát, Mau sớm niệm Di Đà.
Lòng trần nung nấu trăm mùi khổ,
Biển ái đầy vơi một chiếc thuyền.
(Đạo Sử).
Bởi thuyền bá sóng xao biển ái,
Bởi non thề sương trải lạnh lùng.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Biển ái kia bờ lở khó bồi,
Non thề nọ đảnh trôi khôn lấp.
(Phương Tu Đại Đạo).
Hay “Bể cạn non mòn”.
Biển (Bể) cạn: Nước biển bị khô cạn. Non mòn: Núi non bị tiêu mòn.
Biển (bể) cạn non mòn chỉ thời gian trôi qua dài lâu đến nỗi sông biển phải cạn, núi non phải mòn, ý nói cuộc đời thay đổi.
Dầu cho biển cạn non mòn,
Mấy lời Mẹ dặn giữ tròn chớ sai.
(Diêu Trì Kim Mẫu).
Dầu cho biển cạn non mòn,
Tơ duyên khắng khít chỉ còn bấy nhiêu.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Hay “Bể đổi non dời”.
Biển (bể) đổi: Sông biển thay đối. Non dời: Núi non đổi dời, chỉ sự đổi dời.
Biển đổi non dời là non núi và sông biển đều bị dời đổi, ý chỉ việc biến thiên, thay đổi trong trời đất.
Biển đổi, non dời đời phải tuyệt,
Ðức cao bền vững khó cân lường.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Hay “Bể hao núi lở”.
Biển (bể) hao: Bể hao mòn, ý chỉ bể cạn. Núi lở: Núi bị sạt lở, ý như non mòn.
Biển hao núi lở, đồng nghĩa với câu “Biển cạn non mòn”, chỉ thời gian lâu dài hay trời đất thay đổi.
Sớm muộn ắt biển hao núi lở,
Đấng Hoá công chẳng nỡ ngồi yên.
(Thơ Bảo Pháp).
Biển hẹn: Hứa hẹn trước biển, ý nói chỉ biển mà nguyền. Non thề: Chỉ núi mà thề.
Biển hẹn non thề, do thành ngữ Việt Hán “Hải thệ sơn minh 海 誓 山 盟”, chỉ biển núi mà thề hẹn với nhau. Ngụ ý lời thề bền chặt như có biển và núi ghi tạc.
Xem: Thệ hải minh sơn.
Kìa biển hẹn non thề phải dứt,
Dây buộc mình cắt đứt chớ vương,
(Đại Thừa Chơn Giáo).
Hay “Bể hoá vườn dâu”.
Biển (bể) hoá: Biển có sự thay đổi. Vườn dâu: Vườn trồng cây dâu xanh.
Biển hoá vườn dâu, bởi câu thành ngữ “Thương hải biến vi tang điền 蒼 海 變 為 桑 田”, nghĩa là biển xanh hoá thành ruộng dâu, ý chỉ một cuộc thay đổi lớn.
Xem: Bể dâu.
Phòng cơn biển nọ hoá vườn dâu,
Chưa hết quan viên há hết chầu.
(Đạo Sử).
Hay “Bể hoạn”.
Bể (biển): Vùng nước mặn rộng lớn trên bề mặt trái đất. Hoạn: Làm quan.
Biển (bể) hoạn, bởi chữ “Hoạn hải 宦 海”, chỉ chốn quan trường.
Người xưa thường ví cuộc đời ra làm quan cũng như chiếc đò đi giữa biển cả mênh mông, gặp nhiều sóng gió gian truân. Vì thế, người ta gọi đường ra làm quan là “Biển (bể) hoạn”.
Biển hoạn dập dồi thương bấy trẻ,
Thành sầu chất chứa cám cho gia.
(Đạo Sử).
Ruộng dâu, giáo đóng dầy hơn rạo,
Biển hoạn, nước xao dẫy quá bờ.
(Thiên Thai Kiến Diện).
Hay “Bể mê”.
Biển (bể): Khoảng thiên nhiên rộng có nước mặn. Mê: Không tỉnh, lầm lạc.
Biển (Bể) mê là một cảnh giới lầm lạc của chúng sanh, chỉ cõi trần.
Theo Phật, chúng sanh bị nghiệp quả đoạ xuống cõi trần chịu nhiều phiền não, khổ đau. Vì thế, pháp của Phật như một chiếc bè từ đưa chúng sanh vượt qua khỏi biển mê (hay sông mê) để đến bờ giác ngộ.
Xem: Mê Tân.
Biển mê lắc lẻo con thuyền,
Chở che khách tục, cửu tuyền ngăn sông.
(Bài Thài Tam Nương).
Ta than lỗi bậc cung cầm,
Nàng sầu lạc nhạn ngư trầm biển mê.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Hay “Bể mê chèo chiếc thuyền tình”.
Biển mê: Chỉ cõi thế gian. Thuyền tình: Chiếc thuyền của tình thương, tức lòng từ bi.
Biển mê chèo chiếc thuyền tình ý muốn nói chèo chiếc thuyền từ bi, bác ái để cứu vớt những người đang bị chìm đắm trong sông mê biển khổ.
Tâm ẩn ái giúp Chí Linh,
Biển mê chèo chiếc thuyền tình độ nhân.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Hay “Bể Thánh”.
Biển (bể): Vùng nước mặn rộng lớn trên bề mặt trái đất. Thánh: Thánh Hiền.
Biển (bể) Thánh là biển học của Thánh hiền. Ngày xưa các Nho sĩ ca tụng đạo Nho, coi đạo học của các Thánh hiền rộng lớn như biển cả.
Xem: Bể Thánh rừng Nho.
Buổi già ước đặng đem thân gởi,
Biển Thánh rán dò lúc tuổi xuân.
(Đạo Sử).
Biển Thánh xa khơi thuyền Bát Nhã,
Rừng Nho còn đượm nét anh phong.
(Thơ Tiếp Pháp).
Hay “Bể Thánh rừng Nho”.
Biển (bể) Thánh: Nền học của Thánh hiền như biển cả. Rừng Nho: Kinh sách Nho gia như cây trong rừng.
Biển Thánh rừng Nho, lấy ý từ câu “Nho lâm học hải 儒 林 學 海”, tức chữ Nho và kinh sách của Thánh hiền nhiều như cây lá trên rừng, nền học sâu rộng như biển cả.
Bể Thánh rừng Nho ý nói kinh sách như rừng, việc học như biển, mà người xưa nghĩ rằng không biết bao giờ mới học cho hết được.
Xem: Rừng Nho biển Thánh.
Biển Thánh xa khơi thuyền Bát Nhã,
Rừng Nho còn đượm nét anh phong.
(Thơ Tiếp Pháp).
Hay “Bể thề non hẹn”.
Biển thề: Chỉ biển mà thề nguyền. Non hẹn: Chỉ núi mà hứa hẹn.
Biển thề non hẹn, bởi chữ “Hải thệ sơn minh 海 誓 山 盟”, do tích ngày xưa, mỗi khi trai gái thề nguyền về nhân duyên, thường bày bàn hương án giữa trời, chỉ biển và núi mà thề hẹn với nhau. Ngụ ý lời thề bền chặt như có biển và núi ghi tạc.
Sóng dập biển thề mờ mịt cảnh,
Mây che non hẹn lỡ làng hoa.
(Thơ Đào Công).
扁 鵲
Biển Thước là tên một danh y thời thượng cổ.
Tương truyền vào đời vua Hiên Viên, Huỳnh Đế, Biển Thước là một thầy thuốc giỏi, nổi tiếng thời bấy giờ, có thể cải tử hoàn sinh, được người đương thời tặng cho hiệu là Thước Vương.
Những tưởng giữ đặng bia Biển Thước,
Nào hay đâu ngựa khước đem điềm.
(Văn Tế Đốc Học).
Khéo khéo đa tình vương chứng nghịch,
Đầu thang Biển Thước cũng vô phang.
(Thơ Thuần Đức).
Hay “Biển trần khổ”.
Biển (Bể) trần hay “Biển trần khổ” là trần gian như một cái biển khổ mênh mông.
Theo Đạo Phật, nơi cõi trần gian nầy, sự đau khổ của con người dẫy đầy như nước biển mênh mông, lai láng, không bờ, không bến. Bài kệ chuỗi bên Phật có câu: Khổ hải vạn trùng ba.苦 海 萬 重 波 nghĩa là biển khổ muôn lượn sóng nhồi cho người chìm đắm.
Trong Huyền Môn Nhựt Tụng có câu: Trần hải man man nhựt thuỷ đông 塵 海 茫 茫 水 日 東, nghĩa là biển trần mênh mông nước, Mặt trời chiếu trước Đông.
1.- Biển trần:
Biển trần mặc sức sóng nhồi,
Từ thuyền tuông lướt giữa đời cứu dân.
(Lục Nương Giáng Bút).
Biển trần đắm khách nhiều trôi nổi,
Đường Đạo thương ai bước lạ lùng.
(Nhàn Âm Đạo Trưởng).
2.- Biển trần khổ:
Biển trần khổ vơi vơi Trời nước,
Ánh Thái Dương giọi trước phương đông.
(Kinh Cúng Tứ Thời).
Hay “Bể trí non nhân”.
Biển trí: Ý chỉ sự hiểu biết rộng lớn như biển. Non nhân: Lòng thương người cao lớn như núi.
Biển trí là trí huệ rộng lớn. Người có trí huệ là người giác ngộ, đắc thành Tiên, Phật. Trí huệ chỉ cõi Tiên.
Non nhân là lòng từ bi, bác ái của Phật. Non nhân chỉ cảnh Phật.
Biển trí non nhân tức là chỉ cõi tiên cảnh Phật.
Trừ trần cấu, xủ phất trần,
Quen bờ biển trí, dựa gần non nhân.
(Nữ Trung Tùng Phận).
1.- Biện 辯 là bày ra mà nói, nói cho rõ điều phải điều trái. Như: Biện bác, biện luận, biện thuyết, sàm biện.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển Thầy có đoạn dạy: Ðó là bước Ðạo, đó là Thiên cơ. Các con hiểu sao được, nhưng Thầy buồn vì nỗi có nhiều đứa sàm biện về việc ấy. Thầy cũng muốn phạt chúng nó một cách nặng nề, nhưng Thầy nghĩ lại mà thương đó chút.
Lời kệ sám di truyền khuyến thiện,
Câu văn từ luận biện thật thà.
(Kinh Sám Hối).
2.- Biện 辦 là định liệu, sửa soạn, cáng đáng các công việc. Như: Liệu biện, biện lý, biện sự.
Thánh giáo Đức Chơn Cực Lão Sư có đoạn dạy: Người Ðạo đã bơ thờ như gái mới về nhà chồng ban sơ, ruột trống lổng như thùng không, trí não chưa thấy xa hơn gối. Nhóm lại nghịch lẫn nhau, gièm siểm nhau, lo đứng trên người khác nhưng lại không tài liệu biện cho có ích chi cả.
Các đường nẻo mà các con sẽ đi đến, Thầy đã liệu biện.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
辨 分
Biện: Giảng giải, bày tỏ phải trái, tức xét cho rõ. Phân: Chia ra.
Biện phân, như chữ “Phân biện 分 辨”, là chia ra để xét một cách rõ ràng.
Như: Nhờ biện phân mà biết được hoàn cảnh anh ấy.
Nơi nhàn đâu đến đoạ hồng trần,
Lành dữ vì chưng chẳng biện phân.
(Đạo Sử).
Biện phân cho hiểu chút thân sau,
Nhơn trước Thiên môn chửa biết vào.
(Đạo Sử).
Biếng là lười, trễ nhác, không thiết làm việc. Như: Trẻ biếng ăn, biếng chơi, ăn hay biếng làm.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Nền Ðạo chưa lập thành mà bên trong thì người biếng trau Thánh chất, nơi ngoài người lại muốn kêu nài so đo với các Ðấng Thiêng liêng, đặng làm cho rõ mình là thấy xa hiểu rộng.
Vừng trăng xẻ nửa lưng tròng ngó,
Một mảnh gương treo biếng mắt nhìn.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Ðộng cũ vườn tòng sầu biếng trổ,
Non xưa rừng bá thảm buông mành.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Biếng: Ở trong trạng thái không thiết làm việc. Nhác: Làm biếng, lười.
Biếng nhác là lười biếng, không muốn làm việc.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Thầy đã nói rõ ràng: Thượng Phẩm phải về Thầy trước các con, nhưng mà hại thay vì biếng nhác, các con không đọc Thánh Ngôn của Thầy mà kiếm hiểu.
Đừng gặp việc câu mâu biếng nhác,
Mà quên lời phú thác dặn dò.
(Kinh Sám Hối).
Lòng chừa biếng nhác kiêu căng,
Của tiền lãng phí không ngằn phải tiêu.
(Kinh Sám Hối).
Dạy trẻ bỏ tánh tình biếng nhác,
Cần lập thân mới thoát phận tôi đòi.
(Phương Tu Đại Đạo).
Biết là hay được, hiểu được lẽ chính, hiểu được manh mối đầu đuôi một cái gì, vật gì.
Như: Biết rõ tình hình, biết đạo làm người.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Ta nói cho chúng sanh biết rằng: Gặp Tam Kỳ Phổ Ðộ nầy mà không tu thì không còn trông mong siêu rỗi.
Mũi kim chẳng lọt xưa nay hẳn,
Biết sợ xin khuyên cẩn thận mình.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Thơ trang đưa rước khách tài ba,
Nên nghiệp bởi con biết chữ hoà.
(Đạo Sử).
Hay “Biết bao nhiêu”.
Biết bao, như chữ “Biết bao nhiêu”, là tổ hợp biểu thị một số lượng hoặc mức độ không biết chính xác, nhưng nghĩ là nhiều lắm, cao lắm.
Thánh giáo Thầy có câu: Các con hiểu, Thầy buồn, nhưng ấy là máy Trời đã định, chạy sao cho khỏi. Thầy biết bao lần vì các con mà chịu nhọc nhằn.
1.- Biết bao:
Lợi danh đã đoạ biết bao người,
Nhiều kẻ nay còn ý dể ngươi.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Sanh dưỡng đã biết bao căn kiếp,
Rồi dắt dìu cho hiệp với cha.
(Diêu Trì Kim Mẫu).
2.- Biết bao nhiêu:
Thưa nhặt thoi đưa cái bóng thiều,
Anh hùng xuất thế biết bao nhiêu.
(Thơ Hộ Pháp).
Biết: Hiểu được, hay được. Đâu: Chỗ nào, chốn nào.
1.- Biết đâu là có thể, có lẽ lắm.
Như: Trời đang nắng, nhưng biết đâu chiều lại mưa, rán tìm chút nữa biết đâu sẽ kiếm được.
Nếu ai giết mạng sống, đều chịu quả báo không sai, biết đâu là cái kiếp sanh ấy chẳng phải là Tiên, Phật bị đoạ luân hồi mà ra đến đỗi ấy.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
2.- Biết đâu còn có nghĩa là không biết rõ. Như: Anh dạy thế, chứ nào tôi có biết đâu.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có đoạn dạy: Thấm thoát ngày tháng thoi đưa, bóng thiều quang nhặt thúc, sen tàn cúc rũ, đông mãn xuân về, bước sanh ly đã lắm nhuộm màu sầu, mà con đường dục vọng chẳng còn biết đâu là nơi cùng tận.
Ôm ấp tình chung trời một góc,
Hỏi mưa nhắn gió biết đâu theo.
(Bát Nương Giáng Bút).
Nên biết căn sanh để biết mình,
Biết đâu tà chánh lựa mà tin.
(Thơ Thượng Sanh).
Mù mịt biết đâu là hoạ phúc?
Bảy mươi chưa dám gọi rằng may.
(Thơ Thuần Đức).
Biết: Hiểu được. Mấy: Bao nhiêu.
Biết mấy là nhiều, nhiều lắm. Như: Vui biết mấy.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp viết: Có một điều làm cho chúng ta ngạc nhiên hơn hết là từ thử đến giờ nhơn sanh đã hiểu quyền năng vô đối của quyền lực thương yêu nhưng họ chưa hiểu biết thống nhứt cả khối thương yêu ấy đặng làm phương cứu thế độ đời, hay là làm phương châm tạo hạnh phúc cho kiếp sanh của họ trái ngược lại họ chỉ thống hiệp tinh thần thù hận, oán ghét làm cho mặt địa cầu nầy biết mấy phen đẩm máu, nhơn loại tương tàn tương sát với nhau là vì họ bội tín của họ, biết thù hận hơn là thống hiệp thương yêu.
Chia đôi lỡ ở, lỡ khi về,
Cách trở một mình biết mấy quê.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Trọn đời nhẫn chịu nhọc nhằn thân,
Một gánh mà mang biết mấy lần.
(Đạo Sử).
Biết người biết mặt: Ý chỉ hiểu biết người qua bề ngoài. Lòng đâu biết: Chẳng rõ được lòng dạ bên trong.
Biết người biết mặt lòng đâu biết ý muốn nói có thể biết được ngoại diện, nhưng trong lòng thì không thể hiểu thấu được.
Do câu Hán văn: “Hoạ hổ hoạ bì nan hoạ cốt, Tri nhân tri diện bất tri tâm 畫 虎 畫 皮 難 畫 骨, 知 人 知 面 不 知 心”, nghĩa là Vẽ cọp vẽ da khó vẽ xương, biết người biết mặt không biết lòng.
Biết người biết mặt lòng đâu biết,
Ðừng cứ đeo đai nỗi sắc tài.
(Đạo Sử).
1.- Biệt 別 là rời, lìa người hoặc nơi nào đó có quan hệ gắn bó, thân thiết để bắt đầu sống xa nhau.
Như: Ra đi biệt xóm làng, tạm biệt chồng con, chịu cảnh sầu ly biệt.
Hương thề để trước vị bài,
Châm đề thấy rõ những ngày biệt phu.
(Nữ Trung Tùng Phận).
2.- Biệt 別 là khác với nhau, không giống. Như: Phân biệt, khác biệt, biệt hiệu.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Nếu không có thiệt thì làm sao biết đặng dối; còn không có dối, làm sao phân biệt cho có thiệt.
Phải phân biệt hay hay, dở dở,
Đặng toan phương thế đỡ nâng người.
(Phương Tu Đại Đạo).
Biệt: Mất. Dạng: Hình thể trông bên ngoài.
Biệt dạng là mất tiêu hình dạng.
Điếu văn của Đức Thượng Sanh đọc trước Liên đài của Tiếp Pháp Trương Văn Tràng có đoạn: Than ôi! Ngài vào bệnh viện lần nầy là lần chót trong đời của Ngài.
Hôm nay, văn phòng Tiếp Pháp nơi Hiệp Thiên Ðài còn đó mà người chủ đã ngàn thu biệt dạng. Mây bay hạc lánh, ngọc nát vàng chìm. Chúng tôi không còn gặp Ngài được nữa, để cùng nhau thố lộ tâm tình, chia vui sớt nhọc.
Từ độ ấy bóng hình biệt dạng,
Hạc với gà đôi bạn đồng tâm.
(Thơ Hộ Pháp).
別 殿
Biệt: Riêng, khác nhau. Điện: Nhà ở hoặc nơi làm việc của vua quan, hoặc các chức sắc tôn giáo.
Trong đạo Cao Đài, Biệt điện là nơi ở hoặc văn phòng làm việc riêng của chức sắc cao cấp.
Tùy theo Hiệp Thiên Đài hay Cửu Trùng Đài, chúng ta thấy có các Biệt điện như sau:
Hộ Pháp thì có Hộ Pháp Đường, Giáo Tông thì có Giáo Tông Đường, Đầu Sư Nam phái thì Đầu Sư Đường, Đầu Sư Nữ phái thì có Nữ Đầu Sư Đường.
Liên đài được quàn tại Biệt điện của mỗi vị một đêm, Báo Ân Từ một đêm...
(Quan Hôn Tang Lễ).
別 離
Biệt: Chia ra, riêng biệt. Ly: Lìa.
Biệt ly là từ giã để lên đường, hai người đành phải chia lìa, xa cách nhau, không còn bên nhau nữa.
Như: Hai người biệt ly đôi ngả, trước cảnh biệt ly ai lại không đau lòng.
Ve kêu hạ như dường trêu thảm,
Mưa sầu tuôn mấy dặm biệt ly.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Trời! Chinh chiến lại thêm chinh chiến,
Ôi! Biệt ly rồi đến biệt ly.
(Thơ Hoài Tân).
別 業
Biệt: Chia ra, riêng. Nghiệp: Những việc làm những ý nghĩ thiện hay ác được lập đi lập lại, tạo nên sức mạnh chi phối tự thân và hoàn cảnh.
Biệt nghiệp là nghiệp nhân riêng biệt của mỗi người, tạo ra quả báo riêng (biệt báo).
Thí dụ: Mỗi người đều có những sự giàu nghèo, thọ yểu, hạnh phúc, đau khổ khác nhau, đó là biệt nghiệp.
Biệt nghiệp là quả báo riêng từng người, ai tạo nhơn là nấy thọ quả.
(Thiên Đạo).
別 分
Biệt: Chia ra, riêng. Phân: Tách ra thành từng phần riêng biệt.
Biệt phân, như chữ “Phân biệt 分 別”, là chia riêng nhau ra, hay coi là khác nhau để có sự đối xử không giống như nhau.
Biệt phân còn có nghĩa là nhận, biết được sự khác nhau căn cứ vào đặc điểm, tính chất.
Trong quyển Thiên Đạo, Ngài Nguyễn Trung Hậu và Phan Trường Mạnh có câu: Nói một cách giản dị hơn: nhờ học hỏi sưu tầm chúng ta được mở mang trí thức mà làu thông đạo lý, biết biệt phân phán đoán, biết nói đạo lưu loát rạch ròi.
Lương tâm biết hổ ngươi chừa lỗi,
Mới biệt phân sừng đội lông mang.
(Kinh Sám Hối).
Thương chẳng biết biệt phân phải trái,
Dầu khôn ngoan ngu dại cũng là thương.
(Phương Tu Đại Đạo).
別 夫
Biệt: Cách biệt. Phu: Chồng.
Biệt phu là xa cách với chồng, ý chỉ người vợ sống cách biệt với người chồng.
Như: Sau những ngày biệt phu nàng phải lo cho con một cách vất vả.
Hương thề để trước vị bài,
Châm đề thấy rõ những ngày biệt phu.
(Nữ Trung Tùng Phận).
1.- Biểu, thường đọc là “Bảo”, nói điều gì với người ngang hàng hay người dưới. Như: Biểu sao nghe vậy, biểu một đàng đi làm một nẻo.
Thánh giáo Thầy có câu: Chẳng luận là Nam hay Nữ, bất kỳ là nước nào, nó muốn biết đạo lý, con phải độ, biểu chúng nó đến nghe Thầy dạy mới có thế nó tu hành đặng, trước con không nên buộc chúng nó lắm.
Xem: Bảo.
Bởi trước chẳng dằn lòng khéo liệu,
Vợ ghen rồi khó biểu đừng ghen.
(Phương Tu Đại Đạo).
Ðổ tiếng chuông khua muôn tiếng biểu,
Lên lằn không khí lướt xăm xăm.
(Thiên Thai Kiến Diện).
Ngồi lì mà đợi Lý Ngưng Vương,
Biểu xuống thuyền Tiên nói chẹt lườn.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
2.- Biểu 表 là nêu, bày ra ngoài, làm đầu, tờ tấu cho vua. Như: Tiêu biểu, đại biểu, tộc biểu, dâng biểu về triều.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Hôm nay đoàn tụ trong bầu êm ấm vui tươi dưới mái gia đình của nền Ðại Ðạo, sự đoàn kết chặt chẽ nầy tiêu biểu một sức mạnh phi thường có thể dời non lấp bể, nếu những quả tim của tất cả các bạn Ðạo đều cùng đập một nhịp yêu đương và cương quyết làm tròn nhiệm vụ.
Làm thinh tiêu biểu bản tâm,
A Nan, Ca Diếp chọn cầm Pháp môn.
(Báo Ân Từ).
表 揚
Biểu: Nêu lên. Dương: Đưa lên cao.
Biểu dương là bày tỏ, nêu cao lên cho mọi người trông thấy.
Biểu dương còn có nghĩa là khen ngợi.
Như: Biểu dương lực lượng, biểu dương thành tích.
Đạo nghiệp biểu dương nền Chánh Giáo,
Cơ Đồ chiêu tập sức nhơn công.
(Thơ Thuần Đức).
Bà Đầu Sư đắc Đạo quy Tiên,
Đền Thánh biểu dương đứng mặt tiền.
(Thơ Thái Đến Thanh).
Biểu dương Bạch Ngọc nơi trần thế,
Tồn tại nghìn thu rạng ánh hồng.
(Thơ Võ Thành Lượng).
表 號
Biểu: Bày ra ngoài. Hiệu: Tên hiệu.
Biểu hiệu là dấu hiệu để hình tượng ra ngoài, tức dấu hiệu bày tỏ một ý gì cho một việc gì.
Biểu hiệu là một thứ danh hiệu đối với người ngoài.
Trong quyển Đạo Sử của Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu, Thánh giáo của Đức Lý Giáo Tông có câu: Lão đã nói, Ðạo đã lập thành, vậy cây cờ chơn chánh đã vững gốc đặng làm biểu hiệu cho cả chúng sanh dòm lấy đó mà đến nơi Bạch Ngọc Kinh.
Có chi tài dạy trẻ đặng hay,
Chẳng nỡ lấy cân đai làm biểu hiệu.
(Phương Tu Đại Đạo).
表 露
Biểu: Bên ngoài. Lộ: Bày ra.
Biểu lộ là bày ra ngoài cho mọi người thấy.
Trong Đạo Sử, bài diễn văn của Đức Quyền Giáo Tông có câu: Trong đường giao thiệp ta cần phải lấy hết tấm lòng bác ái, đem hết dạ chí thành mà đối đãi nhau thì Ðạo tâm ta mới biểu lộ ra tới gương chơn chánh.
Lại biểu lộ Tứ linh trên nóc,
Cột hai hàng ngắm dọc rồng xanh.
(Lược Thuật Toà Thánh).
表 象
Biểu: Bên ngoài. Tượng: Hình trạng hiện ra.
Biểu tượng là hình ảnh tượng trưng.
Biểu tượng còn có nghĩa là cái ấn tượng đã qua mà làm cho nó hiện lại.
Nguyễn Trung Hậu và Phan Trường Mạnh trong quyển Thiên Đạo có viết: Tôn chỉ của Đại Đạo vốn là Tam giáo quy nguyên, Ngũ chi hiệp nhứt, cho nên cách thờ phượng nơi Bát Quái Đài phải biểu tượng sự quy hiệp ấy.
Đạo biểu tượng tinh thần tồn cổ,
Làm phương châm giác ngộ trần gian.
(Cội Đạo Bốn Mùa).
表 示
Biểu: Nêu, tỏ ra bề ngoài, làm đầu. Thị: Bảo cho mọi người cùng biết.
Biểu thị là tuyên bố ra, hay tỏ ra cho thấy, cho biết.
Như: Biểu thị quyết tâm, Anh ấy biểu thị thái độ bất đồng ý kiến, bất hợp tác.
Sự hội hiệp trong đại gia đình của chúng ta lúc đầu năm Quý Mão đã biểu thị tinh thần đoàn kết và tình tương thân tương ái của chúng ta trong cửa Ðạo.
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
Bịn là vịn, nắm chặt, dùng hai bàn tay bám chặt vào một vật gì, buộc chặt.
Như: Ngồi bịn vào gốc cây kẻo té, xuồng chạy nhanh nhớ ngồi bịn vào be cho vững.
Cơn gió vụt thuyền bong hải ngoại,
Phải lẹ tay bịn lấy dây lèo.
(Lục Nương Giáng Bút).
Bịn: Vịn, nắm chặt, dùng tay bám chặt một vật gì.
Bịn rịn là đi không khỏi.
Bịn rịn còn có nghĩa là lưu luyến, quấn quít, không muốn rời nhau ra khi cần phải chia tay.
Như: Ngày lên đường vợ con bịn rịn.
Người lối xóm lèo nhèo bộc tính,
Kẻ thân quen bịn rịn lo toan.
(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).
1.- Binh, cũng như chữ “Bênh”, là đứng về cùng phía để che chở, hoặc chống chế.
Như: Mẹ hay binh con, binh một cách thiên lệch, che chở binh vực quyền lợi cho nó.
Thuyết về Con Đường Thiêng Liêng Hằng Sống, Đức Hộ Phấp có câu: Người ta để cho mình làm toà xử lấy mình thì còn ai binh cho mình nữa. Không thể gì mình chối cãi tội, cãi án của mình đặng, vì chính mình định cho mình, nếu cãi đặng là qua Chơn Thần sao? Không chối cãi gì được hết cả.
Công của đôi bên trao múc đủ,
Ðừng như kẻ yếu đợi người binh.
(Đạo Sử).
Ðồng gan mới biết đặng đồng tình,
Biết máu thịt mình mới biết binh.
(Nhàn Âm Đạo Trưởng).
Dòng Tương chảy thân bèo trôi nổi,
Chẳng ai thương chữa lỗi binh lời.
(Nữ Trung Tùng Phận).
2.- Binh 兵 là quân lính để đánh giặc, canh giữ các dinh thự, chầu chực chỗ vua ngự, hay hầu hạ các quan.
Thánh giáo Lý Giáo Tông dạy Ngài Thượng Trung Nhựt có câu: Hiền hữu biết rằng trong trận trí binh nầy, nếu không đủ tài tình oai dõng thì chẳng hề thắng đặng.
Một viết với thân giữa diễn đàn,
Bằng xua trước giặc vạn binh lang.
(Đạo Sử).
Tầng quen cỡi ngựa cầm cương,
Trận trung quyết thắng chiến trường đoạt binh.
(Nữ Trung Tùng Phận).
兵 變
Binh: Quân lính. Biến: Sự thay đổi.
Binh biến là những sự thay đổi do giặc giã gây ra, tức những điều tai hoạ bởi chiến tranh, loạn lạc mà sinh ra.
Như: Cuộc binh biến năm Mậu Thân người dân hầu hết bị nghèo khổ.
Chín năm binh biến phải tân toan,
Cứu cánh buồn trông việc bất toàn.
(Thơ Thuần Đức).
兵 革
Binh: Quân lính. Cách: Áo giáp bằng da loài thú, chỉ việc binh.
Binh cách là tiếng dùng để chỉ binh khí và áo giáp. Nghĩa bóng: Chỉ chiến tranh, giặc giã.
Như: Sau binh cách người dân kiến thiết nhà cửa lại.
Biên thùy binh cách còn đe doạ,
Quốc nội chủ quyền lắm đổi thay.
(Thơ Hộ Pháp).
Khiến huynh đệ dứt đường binh cách,
Phò Bắc Nam chung khối tiên long.
(Chiêu Hồn Tử Sĩ).
兵 孤 將 寡
Binh cô: Binh lính bị cô thế, không được viện binh đến. Tướng quả: Tướng ít.
Binh cô tướng quả là binh côi tướng ít, ý chỉ binh tướng suy yếu vì thiếu nơi viện binh.
Khi Ðức Ngài thất thủ thành Hạ Bì vì binh cô tướng quả, bị Tào Tháo vây tại hòn Thổ Sơn...
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
兵 刀
Binh: Quân binh. Đao: Gươm giáo.
Binh đao là binh lính và đao kiếm, tức là quân đội và khí giới.
Nghĩa bóng: Chỉ cảnh chiến tranh, giặc giả.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Ðức Chí Tôn có dạy là dân tộc Việt Thường đang ở trong vòng vay trả oan nghiệp, nhưng hơn 20 năm qua đã hứng chịu nạn binh đao thảm khốc, sự đau khổ đã chập chồng trên đất nước, dù là nơi an tịnh tu hành cũng không tránh khỏi thảm hoạ chết chóc, sự nghiệp tiêu tàn, cửa nhà đổ vỡ.
Quần xoa đỡ ngọn binh đao,
Xây hình thục nữ giặm màu nước non.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Ðẩu giai phải chịu nạn binh đao,
Người dữ xem ra chẳng khác nào.
(Đạo Sử).
兵 器
Binh: Quân lính, quân đội, Khí: Đồ dùng, khí giới đánh giặc, dụng cụ chiến tranh.
Binh khí chỉ chung các loại vật dụng do quân lính dùng để chiến tranh.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Lý Giáo Tông có lời dạy: Nếu hiền hữu để tai vào lời dối trá thì là làm binh khí cho chúng nó hại Ðạo đa nghe!
Nắn nhồi trí huệ thành binh khí,
Rèn chất anh thư đắp lũy đồn.
(Thất Nương Giáng Bút).
Ðoạt gươm Ðiển Mẫu làm binh khí,
Múa búa Lỗ ban lập chiến tràng.
(Thiên Thai Kiến Diện).
Binh: Quân lính, quân đội. Lính: Người trong quân đội, không có cấp bậc.
Binh lính là người trong quân đội ở cấp thấp nhất, không phải là cấp chỉ huy.
Như: Nhiều binh lính không có tinh thần chiến đấu.
Kìa Quan viên Chức sắc bôn chôn,
cũng lũ dại học khôn,
Nọ binh lính Tổng làng chộn rộn,
cũng lũ ngu ăn hỗn.
(Ngụ Đời).
Binh lửa, bởi chữ “Binh hoả 兵 火”, là quân lính và khói lửa, dùng để chỉ cảnh chiến tranh, giặc giã.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Ðiều đáng cho toàn đạo ghi nhớ là trong lúc thời cuộc còn khó khăn, đất nước đang bị khép trong vòng binh lửa, Hội Thánh phải thận trọng với nhiệm vụ và hết sức cẩn thận về mọi trường hợp để có thể lần hồi xây dựng Ðại Nghiệp của Chí Tôn tại thế.
Nhơn sanh đồ thán cơn binh lửa,
Thế giới thương đau nỗi lực quyền.
(Nguyệt Tâm Chơn Nhơn).
Xuân còn nung đậm ngòi binh lửa,
Xuân chẳng quét thanh đám bụi trần.
(Thơ Thượng Sanh).
Nén hương cầu sớm tan binh lửa,
Đời đạo thanh bình chóng phục hưng.
(Thơ Huệ Giác).
兵 戎
Binh: Quân lính, quân đội. Nhung: Chỉ về binh khí, hay quân lính.
Binh nhung là tiếng dùng để chỉ về binh lính và khí giới. Nghĩa bóng: chỉ quân lính.
Như: Phen nầy động việc binh nhung.
Ngoài khua tiếng giặc trong khua nịnh,
Võ thiếu binh nhung quốc thiếu cờ.
(Đạo Sử).
Khách nghĩ tài trai vùi luyến tiếc,
Chờ bao giờ hết hận binh nhung.
(Thơ Hàn Sinh).
兵 書
Hay “Binh thơ”.
Binh: Quân lính, thuộc về chiến tranh. Thư: Sách.
Binh thư hay binh thơ là sách viết về binh pháp, tức phương pháp dùng binh.
Như: Tam lược lục thao là một quyển binh thư.
1.- Binh thư:
Lược sách binh thư dâng bửu bối,
Bao trùm hậu khí giúp nhà Nam.
(Liễu Nhứt Chơn Nhơn).
2.- Binh thơ:
Về đông hết kế Tử Phòng,
Đoạt binh thơ chẳng Trương Tòng mưu mô.
(Ngụ Đời).
Hay “Bênh vực”.
Binh (bênh): Đứng về cùng phía để che chở hoặc chống chế. Vực: Nâng đỡ cho ngồi dậy,đứng dậy.
Đứng về cùng phía một người nào đó để che chở, bảo vệ cho họ, gọi là Binh (bênh) vực.
Thánh giáo Đức Chí Tôn bằng Pháp văn được Hội Thánh dịch ra Việt ngữ có câu: Con cần phải về Pháp trong năm 1928 để binh vực Giáo lý của Thầy tại Hội Nghị Ðại Ðồng Tôn giáo. Con sẽ trọng đại và đủ quyền năng do Thiên ý.
Siêng lo cho kẻ chẳng lo mình,
Binh vực đặng người kẻ chẳng binh.
(Đạo Sử).
Lời lỗ không người binh vực đỡ,
Than ôi! cô quạnh phận hồng nhan.
(Đạo Sử).
柄 玉 相 如
Bính ngọc: Cầm giữ ngọc. Tương Như: Lạn Tương Như, một nhân vật đời Chiến Quốc.
Lạn Tương Như, người nước Triệu đời Chiến Quốc, làm xá nhân cho viên Thái giám trưởng là Mậu Hiền. Vua Tần hứa đem mười lăm thành để đổi viên ngọc họ Hoà của nước Triệu. Lạn Tương Như được Thái giám Mậu Hiền tiến dẫn để đem ngọc bích đi đổi mười lăm thành của Tần.
Vua Tần nhận ngọc nhưng không có ý giao thành, Tương Như đánh lừa lấy lại được ngọc bích đem về trả cho Triệu. Nhờ thế, Lạn Tương Như được thăng chức Thượng khanh.
Bính ngọc Tương Như mấy được dành,
Chưa ra giá đáng xót oai danh.
(Đạo Sử).
1.- Bình 平 là ngang bằng, không chếch lệch, đều nhau. Như: Công bình, bình đẳng, bình địa, bình quân.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thành giáo Thầy có câu: Các con coi kinh điển lại, rồi thử nghĩ lại sự công bình thiêng liêng mà suy gẫm cho hay lẽ phải.
Chánh trực kinh oai loài giả dối,
Công bình vùa sức kẻ chơn thành.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
2.- Bình 平 là yên ổn, phẳng lặng, không có gì lo sợ, trái với loạn.
Như: Mọi người bình an, sức khoẻ bình phục, tinh thần rất bình tĩnh, hoà bình.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu dạy: Bởi thế nên nay chính Thầy phải đến để đem lại cho các con nền hoà bình đã từng hứa hẹn.
Cao bay xa chạy đã hay chi,
Chưa biết loạn bình lúc trợ nguy.
(Đạo Sử).
3.- Bình 萍 là bèo, một loài cây sống lênh đênh trên mặt nước.
Như Bình thuỷ tương phùng, bình bồng.
Lã chã giọt châu sa trước mặt,
Nào ngờ bình thuỷ duyên xưa.
(Tuý Sơn Vân Mộng).
4.- Bình 屏 là bức che ở trước cửa hay ở trong nhà. Như: Bình phong, bình thiên, tước bình, bắn bình.
Xem: Bắn bình.
Mảng trong thấm nghĩa nặng tình,
Để công bẻ liễu, bắn bình trượng phu.
(Nữ Trung Tùng Phận).
平 安
Bình: Yên, không có chiến tranh, không có loạn lạc. An (yên): Yên ổn.
Bình an hay “Bình yên” là yên ổn, không có tai nạn hay điều hoặc rủi ro.
Huấn từ của Đức Thượng Sanh có câu: Trước khi dứt lời, riêng về Chức sắc Chức việc Nam Nữ ở Ðịa phương, tôi cầu chúc mỗi vị thượng lộ bình an, trong năm tất cả công việc Ðạo đều được tiến triển khả quan dưới sự che chở của Ðức Chí Tôn Ðại Từ Phụ.
Cầu xin trăm họ bình an,
Nước giàu dân mạnh thanh nhàn muôn năm.
(Kinh Sám Hối Ngắn).
Cứ níu theo phan Ðức Thượng Hoàng,
Tự nhiên tu tánh đặng bình an.
(Kinh Sám Hối Ngắn).
Bình bát là một thứ dụng cụ của người tu theo Phật, để đựng vật thực của thí chủ cúng dường cho.
Trước kia bình bát làm bằng vỏ trái cây phơi khô hoặc bằng đất. Hiện nay, bình bát thường được làm bằng thau hoặc đồng.
Người tu theo phái khất sĩ rất trọng bình bát, bởi hằng ngày đều bưng bình bát đi hành khất.
Thích Ca bình bát thể tâm tu,
Bửu pháp Tam Tông lý vạn thù.
(Thơ Huệ Phong).
萍 蓬
Bình: Bèo, một loài cây sinh trưởng và lớn lên trên mặt nước. Bồng: Cỏ bồng, một loại cỏ dùng làm tên bắn.
Bình bồng là cánh bèo và cỏ bồng, hai loài cỏ trôi lênh đênh trên mặt nước, dùng để ví với người lưu lạc.
Truyện Kiều, Nguyễn Du có câu: Bình bồng còn chút xa xôi, Đỉnh chung sao nỡ ăn ngồi cho an!
Ðời sống của Ngài là một đời hy sinh, chịu lắm vất vả, bình bồng chỉ vì một mục đích là làm cho đời loạn ra trị...
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
平 等
Bình: Bằng phẳng, đều nhau. Đẳng: Thứ bực.
Bình đẳng là ngang bằng nhau.
Trong Thiên Đạo, Ngài Nguyễn Trung Hậu và Phan Trường Mạnh có viết: Đối đãi với người không phân giai cấp, không phân quốc tịch; chẳng so đo phú bần quý tiện; lấy đức làm trọng, lấy đạo làm cao; không cậy thế ỷ quyền, không xu phụ người thế lực; xem ta như người; xem người như ta. Đó là bình đẳng.
Huống chi người cầm quyền bình đẳng, một nước dầu là của nước Quân Chủ, hay là Tổng Thống, nước Cộng Hoà Dân Chủ cũng đều có chịu mạng Trời thể Thiên hành đạo.
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
平 地
Bình: Bằng phẳng. Địa: Đất.
Bình địa là đất bằng, thường dùng để chỉ cảnh cả một vùng bị tai biến, không còn nhà cửa cây cối.
Ở đây, Bình địa là đất yên ổn, ý chỉ chỗ an lạc không còn phiền não, đau khổ.
Ðấng Chí Tôn, vì thương dân tình nơi đây, đã khổ tâm gieo Ðạo, đem chiếc thuyền cận bến để dìu dắt vào chỗ bình địa đặng tự tại thung dung...
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
平 地 風 波
Bình địa: Đất bằng, thường dùng để chỉ cảnh cả một vùng bị tai biến, không còn nhà cửa, cây cối. Phong ba: Sóng gió.
Bình địa phong ba là đất bằng phẳng nổi sóng gió.
Đồng nghĩa với câu “Bình địa ba đào 平 地 波 濤” là đất bằng dậy sóng, dùng để chỉ sự việc đang yên ổn bỗng nhiên những hoạn nạn, những biến cố xảy đến một cách bất thình lình.
Phòng cơn bình địa nổi phong ba,
Con nhớ ngày nay đã có nhà.
(Đạo Sử).
Hay “Bình an”.
Bình: Yên, không có chiến tranh, không có loạn lạc. Yên (an): Yên ổn.
Bình yên, như chữ “Bình an 平 安”, là yên lành, không gặp điều gì tai hại, rủi ro.
Như: Xóm làng bình yên, cầu chúc mọi người lên đường đều được bình yên.
Xem: Bình an.
Nguyền cho trăm họ bình yên,
Nhà nhà no ấm khỏi phiền khỏi than.
(Giới Tâm Kinh).
平 明
Bình: Ngang bằng, yên ổn. Minh: Sáng sủa.
Bình minh chỉ khoảng thời gian hừng sáng, trước khi mặt trời mọc.
Hai Ngài Nguyễn Trung Hậu và Phan Trường Mạnh trong quyển Thiên Đạo có đoạn: Khi mặt Trời lố mọc, phương Đông rọi ánh bình minh. Người ta không cần đèn đuốc cũng nhận thấy Thái dương. Lần lần ánh dương quang rọi sáng từ thành thị đến thôn quê đến hang cùng nẻo tận.
Kìa là ánh bình minh chói rạng,
Rửa tâm phàm đón áng hồng vân.
(Cửu Nương Giáng Bút).
Còn đợi bình minh trời hé nắng,
Khoa trương tranh cạnh khắp hoàn cầu.
(Thơ Hộ Pháp).
Phòng sương thỏn mỏn đêm sương lạnh,
Đợi buổi bình minh vẹt ngút mù.
(Thơ Thuần Đức).
平 吳 大 誥
Bình: Làm cho yên ổn. Ngô: Vừa là tước hiệu của Chu Nguyên Chương (Ngô Quốc Công), vừa là nguồn gốc, quê cha đất tổ của Chu Nguyên Chương, Thái Tổ nhà Minh. Đại cáo: Bài tuyên cáo lớn.
Bình Ngô đại cáo là bài cáo do Nguyễn Trãi soạn thảo bằng chữ Hán vào mùa xuân năm 1428, thay cho lời Bình Định Vương Lê Lợi để tuyên cáo độc lập của nước Đại Việt trong cuộc chiến thắng với nhà Minh.
Bình Ngô đại cáo là tác phẩm văn học chức năng hành chính quan trọng không chỉ đối với lịch sử dân tộc Việt Nam mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với tiến trình phát triển văn học sử Việt Nam.
Bình Ngô Đại Cáo bia danh Nguyễn,
Sát Đát Binh thư dựng nghiệp Trần.
(Thơ Tiếp Đạo).
屏 風
Bình: Bức ngăn che. Phong: Gió.
Bình phong là vật để chắn gió được xây gạch trước sân, hoặc bằng những khung gỗ, sắt căng vải có thể di chuyển trong nhà.
Như: Bức bình phong che trước Thiên bàn.
Tám cảnh vầy mở bức bình phong,
Bốn cõi khắp xây nền vân thuỷ.
(Tuý Sơn Vân Mộng).
平 權
Bình: Ngang nhau. Quyền: Điều mà pháp luật hay xã hội công nhận cho được hưởng, được làm.
Bình quyền là có quyền ngang nhau về quyền lợi.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Hại thay! Xã hội bình quyền tức nhiên mặt địa cầu ngày nay bị một quyền năng vật chất ấy nương với quyền năng tinh thần mà loài người đạt đến địa vị cao trọng và đạt cơ mầu nhiệm của tạo đoan...
Công vĩ đại lưu truyền nhơn loại,
Cả nữ nam lưỡng phái bình quyền.
(Văn Tế Quyền Giáo Tông).
Hay “Bình sinh”.
Bình: Thường lúc, bình thường. Sanh (sinh): sống.
Bình sanh, như chữ “Bình sinh 平 生”, là suốt cả cuộc đời mình, tức chỉ đời mình trong lúc ngày còn sống.
Sách Minh Tâm Bửu Giám có câu: “Nhàn trung kiểm điểm bình sanh sự, tĩnh lý tư lương nhựt sở vi 閒 中 檢 點 平 生 事, 靖 裏 思 量 日 所 為, nghĩa là trong lúc nhàn rỗi mình kiểm điểm việc bình sanh, lúc thanh tịnh nghĩ đến việc làm trong ngày.
Bình sanh tâm địa náo trung can,
Nhược thể nan tri thế đạo tàn.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Viết thầm thì ắt hoá văn hay,
Có chí bình sanh ắt có tài.
(Đạo Sử).
平 靜
Bình: Không có gì đáng lo sợ. Tĩnh: Yên ổn.
Bình tĩnh là làm chủ được hành động của mình, không bị bối rối.
Trong Phương Luyện Kỷ để vào Con Đường Thứ Ba Đại Đạo có câu: Phải bình tĩnh nghĩa là đừng chịu ảnh hưởng của hoạ phước, buồn, vui (tập tánh không không đừng nhiễm, vui cũng vui, buồn cũng buồn, nhưng đừng để nọc buồn vui thấm vào chơn tánh).
Phận sự làm xong, lương tâm được bình tĩnh an vui, đó là phần thưởng êm dịu của chúng ta đó.
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
平 身
Bình: Ngay, bằng, không chếch lệch, đều nhau. Thân: Thân mình.
Bình thân là ngay mình, đứng yên thẳng mình.
Bình thân là một tiếng xướng trong nghi tiết cúng lễ, như “Hưng bình thân” là đứng dậy.
Hỷ chư đạo hữu. Thiên phong bình thân.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
萍 水
Bình: Cây bèo, một loại cây mọc trên mặt nước. Thuỷ: Dòng nước.
Bình thuỷ là nước bèo, do câu “Bình thuỷ tương phùng 萍 水 相 逢” chỉ sự tình cờ mà gặp nhau.
Bèo trôi không biết đi đâu, nước chảy chẳng biết về đâu, cả hai không định sở, thế mà có duyên gặp gỡ.
Xem: Bình thuỷ tương phùng.
Hạnh phùng bình thuỷ thân an tại,
Nhược ngộ phong ba phận đảo huyền.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Yên hà bút hoạ tranh trăm thức,
Bình thuỷ duyên trao mộng bốn phương.
(Thơ Hoàn Nguyên).
萍 水 相 逢
Bình thuỷ: Bèo và nước. Tương phùng: Gặp gỡ nhau.
Bình thuỷ tương phùng là bèo nước gặp nhau, ý chỉ sự tình cờ mà gặp nhau.
Thơ Vương Bột đời nhà Đường có câu: Quan san nan việt, thuỳ bi thất lộ chi nhân? Bình thuỷ tương phùng, tận thị tha hương chi khách 關 山 難 越, 誰 悲 失 路 之 人. 萍 水 相 逢, 盡 是 他 鄉 之 客, nghĩa là quan san khó vượt, ai xót cho người bất đắc chí. Bèo nước gặp nhau, toàn là do mỗi người một nơi.
Có câu: Bình thuỷ tương phùng,
Thuyền lòng hội ngộ bến lòng hôm nay.
(Thơ Hoài Tân).
Hay “Bỉnh chính”.
Bỉnh: Cái cán, cầm. Chánh (chính): Việc của nhà nước, quy tắc để làm việc.
Bỉnh chánh, như chữ “Bỉnh chính 柄 政”, là nắm chánh quyền, tức cầm quyền hành chánh.
Đã có sẵn một quyền bỉnh chánh,
Cứ phận mình lại nạnh chi ai.
(Ngũ Nương Giáng Bút).
Hay “Bệnh”.
1.- Bịnh còn đọc là “Bệnh”, có nghĩa là đau ốm. Như: Đau bịnh, bịnh tim, phòng bịnh hơn chữa bịnh.
Thánh giáo Thầy có đoạn: Ðạo hiện giờ cũng chẳng khác chi người bịnh mà lương y coi chưa ra chứng. Bề ngoài coi chẳng có vẻ chi trầm trọng, nhưng một ngày kia nếu chẳng rõ mà chế cải thì xuất tại trong mà loán ra ngoài, thế mạnh như núi đè cây, biển tràn bờ, chẳng thế chi ngăn chống nổi.
Nếu ôm ấp một bên thương nhớ,
Bịnh tương tư khó gỡ cho kham.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Ghen sợ chồng thân thể hao mòn,
Ghen sợ bịnh không tròn đạo cả.
(Phương Tu Đại Đạo).
2.-Bịnh hay “Bệnh” còn dùng để chỉ thói quen, nết xấu của con người.
Như: Bịnh (bệnh) hiếu thắng, bịnh tham của, bịnh liến, bịnh lười biếng.
Muốn sửa bịnh các em làm biếng,
Thì toan bề sai khiến lượng phương làm.
(Phương Tu Đại Đạo).
病 嶂
Hay “Bệnh chướng”.
Bịnh (Bệnh): Đau ốm. Chướng: Khí ẩm thấp của rừng núi kết lại.
Bịnh (Bệnh) chướng là do chướng khí, tức hơi độc trong trời đất gây thành bịnh.
Thánh giáo Đức Lý Đại Tiên có câu: Nạn tiêu diệt hầu gần, hết chém giết lẫn nhau tới buổi bịnh chướng sát hại. Lão thấy hình phạt phải châu mày, nhưng ôm lòng ráng chịu, lạy lục khẩn cầu.
Thiên tai địa ách do oan nghiệt,
Bệnh chướng đao binh tại sở hành.
(Thơ Huệ Phong).
病 患
Hay “Bệnh hoạn”.
Bịnh (bệnh): Đau ốm, tức cơ thể hoạt động không bình thường. Hoạn: Tai hại, sinh bịnh.
Bịnh hoạn hay “Bệnh hoạn”, là nói chung về bệnh tật và hoạn nạn.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Tôi nhận thấy Hội Thánh Phước Thiện có nhiều thiện chí xây dựng, nhứt là vị chưởng quản Phước Thiện từ mấy năm nay đã gắng sức thực hành công tác từ thiện để giúp ích cho người già cả và cho Ðạo hữu trong lúc ương yếu bịnh hoạn.
Cứu bịnh hoạn giúp người nghèo khổ,
Thế cho chồng cứu độ muôn dân.
(Phương Tu Đại Đạo).
Cơn bịnh hoạn ân cần thang thuốc,
Khi rầu buồn dịu ngọt khuyên lơn.
(Phương Tu Đại Đạo).
Bịnh: Còn đọc “Bệnh 病”, dùng để chỉ thói quen, nết xấu của con người. Liến: Lanh lẹ, hoạt bát trong nói năng, đối đáp, hoặc thích đù nghịch, chọc phá, giỡn hớt.
Bịnh liến là có tật hay quậy, hay đùa nghịch, chọc phá, táy máy luôn tay.
Thiệt bịnh liến của tôi cũng quá,
Vẽ thật tình mấy ả chênh lòng.
(Phương Tu Đại Đạo).
Bít là làm cho chỗ hở hoặc lối thông với bên ngoài bị kín, bị tắc nghẽn đi.
Như: Dán giấy bít khe hở nơi vách, anh ấy rào bít đường đi.
Mờ mịt biết đâu tầm trở lại,
Chung quanh bao chặt bít đường đi.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
Bít: Che kín, làm cho lối thông với bên ngoài bị tắt nghẽn đi. Chịt: Làm cho tắc, không thông.
Bít chịt, như chữ “Bít bùng”, là chật cứng, kín mít, không có chỗ nào xen vào được.
Như: Cây cỏ mọc bít chịt khu vườn.
Đường ngắn ngủn mà đường bít chịt,
Sậy lè tè khít rịt rậm ri.
(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).
1.- Bịt là làm cho chỗ có lỗ hổng hoặc chỗ khe hở được che kín lại.
Như: Lấy vải bịt miệng hủ, trò chơi bịt mắt bắt dê, bịt tai bịt miệng lại.
Lỗ tai bịt đừng nghe lời bợ,
Hễ dữ hung sách vở vẫn nằm lòng.
(Phương Tu Đại Đạo).
2.- Bịt còn có nghĩa là che kín, bọc quanh, vấn quanh. Như: Bịt hết đầu mối, bịt răng, khăn bịt đầu.
Nói về bộ Đại phục Thượng Sanh, Tiếp Pháp Trương Văn Tràng trong quyển Giáo Lý có viết: Đại Phục cũng y như Thượng Phẩm, đầu bịt Thanh Cân, tức bao đảnh xanh, lưng mang dây Thần Thông, tức một đường lụa đỏ và nịt giây Lịnh Sắc, y như Hộ Pháp và Thượng Phẩm, song thả mối bên tả, nơi lưng giắt Thư Hùng Kiếm.
Vô tới giữa điện thờ, con cháu đem bộ áo của ông cố hay ông sơ gì đó mặc vô cho ông, bịt khăn và trao cho cây gậy.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
Bo: Keo kiệt, giữ chặt lấy cho mình.
Bo bo là nhứt thiết không chịu rời bỏ ra, mà giữ chặt lấy với mình.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Hại thay! Ngài phải chịu một trường hợp khó khăn đã chịu một điều oan khúc tình cờ không thế gì tự bào chữa lấy mình cho đặng, đàng sau Anh cả chúng ta buổi nọ, cả Chức Sắc Thiên Phong nam, nữ cả tín đồ đều phân phân bất nhứt, đàng sau Anh cả chúng ta buổi nọ không có cái hậu thuẫn chi hết, cả thảy đều bo bo chết anh, anh chịu, chết em, em chịu, không biết binh vực lẫn nhau, không có một hậu thuẫn biểu sao cường quyền không áp chế bắt cầm tù đặng thị nhục.
Bởi bo bo chuộng nết yêu đào,
Chẳng đếm bực thư hào đồng phẩm vị.
(Phương Tu Đại Đạo).
Còn anh mãi bo bo chác khổ,
Giam cuộc đời vào chỗ quạnh hiu.
(Thơ Hộ Pháp).
1.- Bó là dùng lạt, dây để buộc những vật rời được kết lại với nhau.
Như: Bó củi, bó đũa, bó lúa.
Mây che nào khuất ngôi sao thẳm,
Ai bẻ cho rời bó đũa con.
(Thơ Võ Thành Lượng).
2.- Bó là kềm lại, giữ lại, không cho bộc phát ra hay không cho hoạt động được.
Như: Bó lòng thảm, cái khó bó cái khôn, bó mình, bó cẳng, bó gối. bó tay, bó dò.
Bó lòng thảm, dệt tâm đau,
Nâu sồng cậy phép đổi màu anh hoa.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Bó: Dùng dây, lạt để buộc những vật rời được kết lại với nhau. Buộc: Lấy dây quấn lại và thắt cho chặt.
Bó buộc là kìm giữ trong phạm vi nhất định, không cho tự do hành động.
Hai Ngài Nguyễn Trung Hậu và Phan Trường Mạnh trong quyển Thiên Đạo có viết: Tóm lại mà nói, ngoại trừ những phương pháp tu dưỡng cao siêu dành riêng cho bực thượng thừa, còn thì những quy tắc vừa kể ra đây rất hạp với người ta tu tại gia không điều chi bó buộc khó khăn, và cũng không mảy may nào gọi là yếm thế, là dị đoan, là mê tín.
Vì cớ nên, thời giờ nầy, thấy Bần Ðạo bó buộc nghiêm khắc có lẽ những kẻ biếng nhác cũng phàn nàn lén lút.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
Bó: Chỉ toàn bộ những vật rời được kết lại với nhau, như bó đước, bó hoa. Đũa: Đồ bằng tre dùng để gắp.
Bó đũa là nhiều chiếc đũa ăn cơm được buộc chặt lại với nhau thành một lọn.
Bó đũa còn dùng để biểu tượng cho sự đoàn kết gây sức mạnh.
Do tích một người cha đưa từng chiếc đũa cho các con bẻ, tất cả đều bẻ gãy hết. Nhưng khi ông cột lại thành một bó thì các con không bẻ gãy được. Vì vậy ông cho rằng đoàn kết tạo nên sức mạnh.
Xem: Gương cột đũa.
Mây che nào khuất ngôi sao thẳm,
Ai bẻ cho rời bó đũa con.
(Thơ Võ Thành Lượng).
Bó: Giữ lại, kềm lại, không cho bộc phát ra hay không cho hoạt động được. Gối: Đầu gối.
Bó gối là ngồi chòng qua đầu gối.
Bó gối, như chữ “Bó cẳng”, là chịu cảnh ngồi một chỗ, không đi đâu được.
Như: Trời mưa phải ngồi bó gối ở nhà.
Xoa tay tính nhẩm tuồng luân chuyển,
Bó gối ngồi mơ chuyện hão huyền.
(Thơ Hoài Tân).
1.- Bò là động vật thuộc loài nhai lại, chân hai móng, sừng rỗng và ngắn, lông thường màu vàng, nuôi để lấy sức kéo, ăn thịt hoặc lấy sữa.
Như: Trâu, bò cày ruộng, nuôi bò lấy sữa, trâu bò hút nhau ruồi muỗi chết.
Lại cũng thấy người ta mà đẻ,
Đứa con đầu giống nghé giống bò.
(Phương Tu Đại Đạo).
Tại mẹ thường hay sợ hay lo,
Gặp trâu chém bò xô, nên đẻ giống.
(Phương Tu Đại Đạo).
2.- Bò là di chuyển bằng hai tay và hai đầu gối.
Như: Bé bò lết suốt ngày, bò qua rào kẽm gai, chưa tập bò đã lo tập chạy.
Khi vừa mới biết bò biết mách,
Đừng cho người chọc cách dữ dằn.
(Phương Tu Đại Đạo).
Bò: Di chuyển bằng hai tay, hai đầu gối, hoặc di sát bụng xuống đất. Lết: Kéo lê đôi chân mà di chuyển.
Bò lết là nói di chuyển vừa bò vừa lết, chứ không đi bằng hai chân, ý chỉ người đê tiện, cúi mình vì lợi quyền.
Như: Nó bò lết, đội những người có địa vị, quyền lợi để kiếm chác.
Thiên hạ cúi mình bò lết trong chỗ nhơ bẩn vì chút ít lợi quyền, chúng ta phải vươn mình lên cao để đón hứng mùi hương thanh thoát...
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
1.- Bỏ là để hoặc cất một vật gì vào một nơi, một vị trí nào đó nhằm mục đích nhất định.
Như: Bỏ phân xuống ruộng, bỏ hột trên luống cày, bỏ tiền vào túi, muối bỏ biển.
Kìa những gái lẫy lừng hạnh xấu,
Bỏ vạc đồng đốt nấu thảm kinh.
(Kinh Sám Hối).
Bầu bí chưa ai bỏ lộn giàn,
Mình quê chưa ắt biết cao sang.
(Đạo Sử).
Phân mắc rẻ lòng đừng sợ tốn,
Bỏ cho nhiều ruộng trộn cho đều.
(Phương Tu Đại Đạo).
2.- Bỏ là không dùng nữa, không nhìn nhận đến. Như: Bỏ nhà đi mãi, nhà nước năm tới bỏ khoa thi.
Thánh giáo Thầy có câu: Ấy vậy, Ðạo là vật rất hữu ích, như giáp hữu ích cho thân các con. Nếu các con bỏ giáp thì thân các con ra trần lỗ, còn bỏ Ðạo thì các con ở dưới phép tà thần.
Vinh hoa phẩm cũ ngôi xưa đó,
Khổ cực các con chớ bỏ trường.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Chẳng kể công khanh bỏ ấn quan,
Bồng Lai vui đạo hưởng an nhàn.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Áo rủi rách cổi đi mà bỏ,
Muốn cho lành chỉ xỏ trôn kim.
(Phương Tu Đại Đạo).
Bỏ con: Vì nghĩa mà dứt bỏ con. Lo cháu: Giữ gìn đứa cháu theo lời hứa.
Bỏ con lo cháu, bỡi chữ “Tồn điệt phế nhi 存 姪 廢 兒”, nghĩa là bỏ con để giữ cháu cho còn.
Sách Tấn Thư chép: Đặng Nho tự là Bá Đạo, người đời Tấn, tính tình chánh trực, hoà hiếu. Người anh và chị dâu của Đặng Nho chết đi để lại một đứa con trai, cùng trang lứa với con mình, Đặng Nho đem về nuôi dưỡng cả con lẫn cháu.
Khi Đặng Nho giữ chức Thái thú đất Hà Đông, gặp năm có giặc Triệu Thạch Lặc nổi lên làm loạn, Đặng Nho phải cùng vợ con và đứa cháu chạy lánh nạn. Giữa đường gặp giặc rượt đuổi phải chạy sang sông, ông liệu không thể nào bảo toàn cả con lẫn cháu, mới bàn với vợ: Anh ta chỉ có một đứa con trai để lại ta nuôi dưỡng bấy lâu nay, không thể để tuyệt giống, còn đứa con chúng ta có mất đi, ta có thể sinh đứa con khác được, vậy ta phải bỏ con lại và đem cháu theo.
Về sau ông được cử làm Thái thú Ngô Quận, nổi tiếng thanh liêm, rất được lòng dân, nhưng vợ ông hết đường sinh sản nữa. người xưa than rằng: “Thiên Đạo vô tri, sử Bá Đạo vô nhi 天 道 無 知, 使 伯 道 無 兒” nghĩa là Đạo Trời không biết người nghĩa, khiến cho ông Bá Đạo không con.
Khi hai vợ chồng Đặng Nho già yếu, người cháu rất có hiếu, phụng dưỡng ông bà lúc sống như cha mẹ ruột khi chết để tang ba năm, nên sách Nho có câu: “Đặng thị điệt tam tải trì tang, Bá Đạo vô hám 鄧 氏 姪 三 載 持 喪, 伯 道 無 憾”, nghĩa là cháu của họ Đặng ba năm cư tang, ông Bá Đạo chẳng hề hối hận.
Bên ngoài về phía sau hành lang Báo Ân Từ có một khuôn hình lấy tích “Tồn điệt phế nhi 存 姪 廢 兒”.
Xem: Đặng Nho.
Vì thương cháu, chị anh đã khoản,
Hết lương khô chạy nạn bế con.
Bỏ con lo cháu cho tròn,
Đặng Nho khuyên vợ ta còn tương lai.
(Báo Ân Từ).
Bỏ: Thôi không tiếp tục nữa. Dở: Ở tình trạng chưa xong, chưa kết thúc.
Bỏ dở là để dở dang, tức không bỏ hẳn, nhưng cũng không tiếp tục.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Chẳng nên thấy sự khó khăn mà bỏ dở nửa chừng, hoặc ham lợi nhiều mà làm việc cẩu thả, khiến công chuyện bất thành rồi đổ thừa cho điều nầy lẽ nọ.
Ấp lạnh quạt nồng đành bỏ dở,
Dâng trà mời nước phải buông trôi.
(Thơ Hoài Tân).
Bỏ giả: Phế bỏ những cái giả tạo. Tầm chơn: Tìm kiếm cái chơn thật.
Cái giả là những cái hữu hình ở thế gian, dễ huỷ diệt, cái chơn là cái vô vi, thường tồn vĩnh cửu.
Bỏ giả tầm chơn là bỏ những cái giả tạm ở cõi thế gian để tìm những cái chơn thật ở cõi thiêng liêng.
Bỏ giả tầm chơn mau giác ngộ,
Đường tu lần bước gội ơn Trời.
(Thơ Chơn Tâm).
Bỏ: Thôi không tiếp tục nữa. Hoang: Không được con người chăm sóc, sử dụng đến.
Bỏ hoang là bỏ đất trống, không trồng trọt, hay bỏ vật gì không sử dụng, lo lắng đến trong một thời gian dài.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Đức Thanh Tâm có câu: Ruộng đây là tỷ với Tâm, Tâm không ai giồi trau. Ðạo nơi Tâm, thì Tâm ví như Ðiền, có Ðiền mà chẳng cày bừa đặng đem hột lúa gieo vào cho đặng trổ bông đơm hột thì ruộng tất phải bỏ hoang, bỏ hoang thì sâu bọ rắn rít xen vào ẩn trú.
Quốc gia nghèo nàn, dân khó mở mang,
Lăng điện phá hoại, Văn miếu bỏ hoang.
(Ngụ Đời).
Bỏ: Không chăm nom, không chú tâm đến. Phế: Truất bỏ, không dùng nữa.
Bỏ phế là bỏ qua không trông nom, không quan tâm hay chú ý đến nữa.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Con người cũng vậy, nếu quá lo cho hình thức mà, bỏ phế tinh thần thì con người sẽ trở nên xa hoa lãng mạn, vô đạo đức, vô nghĩa nhân và sẽ là một mối tai hại cho gia đình và xã hội.
Thương luân lý xem thường bỏ phế,
Thương kẻ nàn hoà lệ chia ưu.
(Bát Nương Giáng Bút).
Bỏ: Bỏ là không dùng nữa, không nhìn nhận đến. Thừa: Dư ra, không thiếu, không dùng đến nữa.
Bỏ thừa là bỏ hẳn những phần còn lại ra, không muốn dùng đến nữa.
Như: Ăn thì ăn cho hết đùng có bỏ thừa phí lắm.
Chuộng danh đã đặng gặp danh chưa,
Hay nỗi ở ăn của bỏ thừa.
(Đạo Sử).
Phàm quý lạ thì là trọng giá,
Vì cớ nào ném bạ bỏ thừa.
(Phương Tu Đại Đạo).
Bóc là cổi ra, lột lần vỏ bên ngoài. Như: Bóc vỏ bỏ hột, địa chủ bóc lột, những phường cướp bóc.
Đức Lê Văn Duyệt giáng cơ trong Thánh Ngôn Sưu Tập có câu: Ngày nay có hai khối cầm vận mạng toàn cả nhơn loại, là khối Vô Sản và khối Tư Bản, nhưng khối nào cũng dùng quyền độc đoán cướp bóc chúng sanh, nên cần có một tôn giáo đứng làm trọng tài cho hai khối, thế sau nầy mới gây hoà bình được.
Thêm nữa Đấng chịu khổ nhục đi ăn xin từ bữa, chịu hèn hạ ấy lại còn bị chúng bắt đóng đinh trên cây Thập Tự Giá “Lên án là kẻ côn đồ” kẻ hung bạo, cướp bóc.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
Bóc: Lột dần vỏ bên ngoài, cổi ra. Lột: Bóc tuột ra.
Bóc lột là chiếm đoạt thành quả lao động của người khác bằng cách dựa vào quyền tư hữu về tư liệu sản xuất, hoặc vào quyền thế chính trị.
Bóc lột còn dùng để chỉ ăn lãi quá đáng, hoặc lợi dụng quá đáng.
Trong Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Coi dân như con đỏ, làng như cha mẹ dân thay thế cho triều đình, mà muốn nên phận cha mẹ dân thì vị chủ quyền đó không tư tâm, tư kỷ, hễ tư tâm tư kỷ tức bóc lột dân, trộm cướp của dân, hiếp bức dân.
Một phần đồng bào chúng ta, lớp bị tàn sát dã man, không phương trốn lánh, lớp bị bóc lột sản nghiệp, của tiền, chỉ còn mảnh áo che thân.
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
Bọc là gói lại, bao kín chung quanh. Như: Bọc quần áo, da bọc xương, da ngựa bọc thây.
Thánh giáo Thầy có câu: Thầy nói cái chơn thần là nhị xác thân các con, là khí chất (le sperme évaporé). Nó bao bọc thân thể các con như khuôn bọc vậy.
Con vốn thật là tay chơn Lão,
Phái nữ nhi bọc bảo giúp công Thầy.
(Ngọc Hoàng Thượng Đế).
Thi nhau cật lực một hồi,
Gặp hòm bọc kín xúm lôi lên liền...
(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).
Bọc thây, bởi chữ “Da ngựa bọc thây” dịch từ thành ngữ Hán là “Mã cách loã thi 馬 革 裸 尸”.
Bọc thây nói nghĩa vụ làm trai xông pha chết nơi chiến địa, lấy da ngựa bọc thây.
Do câu nói của Mã Viện trong Hán Thư: Nam nhi yếu đương tử ư biên dã, dĩ mã cách loã thi hoàn táng nhĩ, hà năng ngoạ sàng thượng tại nhi nữ thủ trung da! 男 兒 要 當 於 邊 野 以 馬 革 裸 尸 還 葬 耳 何 能 臥 床 上 在 兒 女 手 中 耶, nghĩa là làm trai nên chết ở chốn biên thuỳ, lấy da ngựa bọc mà chôn mới là đáng trọng, chứ sao lại nằm ở xó nhà, chết ở trong tay bọn đàn bà thì có hay gì.
Bọc thây dù phải đền ơn nước,
Nâng vạc chi còn tiếc mảnh thân.
(Thơ Hoàn Nguyên).
1.- Bói là đoán việc may rủi hay sống chết đã qua hay sắp tới. Như: Thầy bói, bói ra ma quét nhà ra rác.
Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Dầu nơi Cực Lạc cũ, hay đất mới cùng là Nghĩa Địa; đất 50 mẫu ở Long Thành cũng vậy, Bần Đạo đã biết bên nước Tàu; hễ ông, bà, cha, mẹ họ có qui, họ quàng lại để chọn ngày hoặc chỗ đất tốt có hàm rồng, dầu phải 5, 3, năm họ cũng đợi kiếm được mới làm lễ an táng, vì bên nước Tàu có nhiều nhà biết thiên văn, hay khoa coi bói họ giỏi.
Đôi lứa chung vầy duyên bói phượng,
Năm cung nhạc trỗi khúc cầm loan.
(Thơ Thuần Đức).
2.- Bói nói tắt của từ “Xoi bói”, có nghĩa là chú ý tìm và moi móc những sai sót, lỗi lầm nhỏ của người khác.
Như: Bói đâu ra tiền, anh ấy hay xoi với bói những chuyện của người khác.
Mọi việc nên dạy biết học đòi,
Sự nhơ nhớp để lời xoi với bói.
(Phương Tu Đại Đạo).
Hay “Bói phụng”
Bói: Gieo quẻ xem sự kiết, hung. Phượng (phụng): Chim phụng hoàng.
Bói phượng tức là bói được quẻ chim phượng, chim hoàng sánh đôi, chỉ việc kết duyên vợ chồng.
Do tích trong Tả Truyện: Quan Đại phu nước Trần là Ý Thị muốn gả con gái cho Kính Trọng, bèn bảo vợ đi bói xem một quẻ, quẻ có câu rằng: Thị vị phượng hoàng vu phi, hoà minh tương tương… 是 謂 鳳 凰 于 飛, 和 鳴 鑲 鑲, nghĩa là hai trẻ sánh duyên như chim phượng chim hoàng sánh bay, tiếng hót vang vang.
Đôi lứa chung vầy duyên bói phượng,
Năm cung nhạc trỗi khúc cầm loan.
(Thơ Thuần Đức).
Bom: Một thứ vũ khí vỏ bằng kim loại, ở trong chứa thuốc nổ, có sức công phá lớn, do máy bay thả xuống. Đạn: Khối kim loại tròn, nhọn được bắn đi bằng súng để phá hoại mục tiêu, hoặc sát thương.
Bom đạn là bom và đạn, những thứ vũ khí giết người, hoặc dùng trong chiến tranh hiện đại.
Bom đạn nổ đền chùa sụp đổ,
Xác thây người chật lộ đầy sông.
(Nguyễn Trung Trực Giáng).
Bom: Một thứ vũ khí vỏ bằng kim loại, ở trong chứa thuốc nổ, có sức công phá lớn, do máy bay thả xuống. Nguyên tử: Phần tử nhỏ nhất của nguyên tố hoá học, gồm hạt nhân ở giữa, một hay nhiều electron xung quanh.
Bom nguyên tử là loại bom dùng nguyên lý phản ứng tan vỡ của hạt nhân nguyên tử nặng, phóng ra năng lượng lớn, có sức giết người rộng và phá hoại mạnh gấp nhiều lần bom thông thường.
Trong Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Loài người quá xảo quyệt khôn khéo tiềm tàng sự sung sướng xác thịt nầy, tại do đó mà gây nên biết bao nhiêu thần sầu quỷ khóc, chiến tranh không ngớt, là do nơi lòng tham lam tiến triển văn minh, cơ khí tối tân như là bom nguyên tử để giết người.
Bom nguyên tử đến hồi tung nổ,
Biến cảnh trần như chỗ hoang vu.
(Nguyễn Trung Trực Giáng).
Bon: Lần đi, chạy nhanh. Chen: Len, lẫn vào giữa.
Bon chen là tranh cạnh và giành giựt để cố cầu danh hoặc mưu lợi.
Như: Người tu hành không nên bon chen vào đường danh nẻo lợi.
Vui lòng hai buổi có tương dưa,
Không phải bon chen, khỏi mắc lừa!
(Thơ Hàn Sinh).
Bòn là thu, góp nhặt từng ít một. Như: Bòn từng đồng từng cắc, bòn tro đãi trấu.
Như: Vùng đất bị hạn hán phải bòn từng gáo nước để uống, bòn từng đồng từng cắc.
Túng lúi đi chơi nên tấp lại,
Ăn bòn chẳng chịu tấp theo ai.
(Đạo Sử).
Dầu mình giàu rộng thế xa hoa,
Cũng nhớ mẹ ở nhà bòn cắc nhỏ.
(Phương Tu Đại Đạo).
Bòn công: Đóng góp công quả từng ít một. Chuộc quả: Lấy công để chuộc lại nghiệp quả.
Bòn công chuộc quả ý muốn nói đóng góp công quả từng ít một để chuộc lại những quả nghiệp đã gây ra.
Thầy lập cho các con một trường tại thế hầu chen lấn với nhau bòn công chuộc quả mà chờ ngày quy vị.
(Ngọc Hoàng Thượng Đế).
Bòn: Thu nhặt từng ít một. Mót: Nhặt nhạnh của để rơi vãi hoặc bỏ sót.
Bòn mót là bòn từng ly từng tí, không để sót hoặc rơi vãi phí phạm.
Như: Bòn mót từng hạt lúa để dành.
Một người ăn mày cầm Bình Bát đi xin cơm đặng nuôi kẻ khó kẻ đói, đi bòn mót từ miếng vải rách đặng chằm khíu mặc cho lành, tức là Đức Phật Thích Ca.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
Bọn là một đoàn, một lũ. Như: Bọn học trò, đi thành bọn năm bảy người, bọn trẻ chơi nghịch ngoài đường.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Vậy Thầy lại thấy một bọn môn đồ, khi đến nói đạo với kẻ nào thì thẹn thuồng ái ngại. Phải nghịch chánh lý chăng?
Chuyên gìn Tứ đức với Tam tùng,
Làm hiệu dạy lần bọn nữ trung.
(Đạo Sử).
Tránh những bọn tay dơ miệng xấu,
Hễ trị người phải biết thấu tánh tâm người.
(Phương Tu Đại Đạo).
1.- Bóng là vùng không được ánh sáng chiếu tới do bị một vật che khuất, hoặc hình của vật ấy chiếu trên nền.
Như: Bóng cây trên đường, thả mồi bắt bóng, cây cao bóng cả, nàng về chiếc bóng song the.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Thầy có câu: Con lấy làm hữu hạnh gặp đặng Thầy dìu bước trong nẻo Ðạo nhiệm mầu lúc non chiều bóng xế.
Bóng trải diềm dà xuân đợi chúa,
Tiết nồng thơ thới hạ khoe sen.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Chờ trưa e nỗi bóng Trời nghiêng,
Lỡ bước e đưa chẳng gặp thuyền.
(Đạo Sử).
Ngày chờ mây áng ngàn dâu khuất,
Ðêm bặt đèn khuya một bóng nhìn.
(Đạo Sử).
2.- Bóng là tia sáng, ánh sáng.
Như: Bóng nắng xuống thềm, bóng trăng mờ ảo, bóng ác, bóng nguyệt, bóng thỏ.
Vườn trước ngơ trông cây liễu rũ,
Non xưa chạnh nhớ bóng trăng tà.
(Đạo Sử).
3.- Bóng là cái hình soi vào nước hoặc mặt phẳng hay gương mà phản chiếu ra.
Như: Soi bóng trong gương, bóng cây in xuống nước.
Soi bóng nước đặng nhìn thấy dạng,
Thấy nghi dung hết mặn nét ngài.
(Nữ Trung Tùng Phận).
4.- Bóng là hình dạng nhìn không rõ nét, hoặc có hình thấp thoáng.
Như: Bóng núi trong sương mù, bóng dáng mập mờ.
Ngọ chưa thấy bóng kế Mùi sang,
Trông đặng vinh huê hưởng chữ nhàn.
(Đạo Sử).
5.- Bóng là bóng của người có thế lực, quyền uy, dùng để ví sự đùm bọc, che chở.
Như: Núp bóng tùng quân, nương bóng từ bi.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Trong bước đường tu, dưới bóng từ bi bác ái của Ðức Chí Tôn, ước mong những lời dạy bảo ấy sẽ giúp ích mãy may cho những đạo hữu ham tìm ánh sáng của chơn lý.
Xủ áo trần hoàn đã rảnh tay,
Thung dung nhờ núp bóng Cao Ðài.
(Đạo Sử).
Vui bóng Cao Ðài che khắp chốn,
Vui gương Ngọc Ðế thấy như nhiên.
(Đạo Sử).
6.- Bóng chỉ một vật có bề mặt đánh nhẵn, láng, có thể soi được.
Như: Sáng bóng, bào trơn đánh bóng.
Dưới mắt thấy lắm tay đánh bóng,
Theo gái giàu như bóng theo chàng.
(Phương Tu Đại Đạo).
7.- Bóng là hồn vía của người chết nhập vào xác người nào đó, gọi là bóng, đồng.
Như: Ngồi bóng, bóng cô, bóng cậu, bóng chàng.
Bóng chàng, đồng cốt gạt đời,
Xưng hô Thần Thánh dối lời giả mang.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
Dưới mắt thấy lắm tay đánh bóng,
Theo gái giàu như bóng theo chàng.
(Phương Tu Đại Đạo).
8.- Bóng là màng nước hình cầu nhỏ do không khí làm phồng lên, nổi trên mặt nước.
Như Bóng bọt, bóng nước trôi trên sông.
Chàng thì biển cả vơi vơi,
Thiếp như bóng bọt giữa vời linh đinh.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Bóng: Ánh sáng do mặt trời, mặt trăng rọi xuống. Ác: Chim quạ.
Bóng ác, đồng nghĩa với “Bóng ô”, là bóng con chim quạ, dùng để chỉ bóng mặt trời.
Tương truyền trên mặt trời có con quạ, nên người ta gọi mặt trời là bóng ác, bóng ô, hay ác vàng.
Bóng ác hừng trời đêm sắp dứt,
Tiếng gà dậy đất cảnh hầu thay.
(Thơ Thuần Đức).
Châu về hớn hở màu xuân đến,
Lan nở tươi cười bóng ác xây.
(Thơ Thượng Cảnh Thanh).
Bóng: Những bọt do hạt mưa xuống tạo thành, nổi trên mặt nước. Bọt: Bong bóng nhỏ.
Bóng bọt tức là cái bọt bong bóng nổi trên mặt nước, trôi giạt lênh đênh, dễ tan vỡ, ví thân phận người phụ nữ.
Chàng thì biển cả vơi vơi,
Thiếp như bóng bọt giữa vời linh đinh.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Bóng: Hình dạng nhìn không rõ nét, hoặc có hình thấp thoáng. Câu 駒 (cu): Loài ngựa tốt.
Bóng câu do chữ “Bạch Câu quá khích 白 駒 過 隙” tức là bóng ngựa trắng qua khe hở, dùng để chỉ thời gian trôi qua nhanh.
Sách Sử Ký chép lời Trương Lương nói: Nhân sinh nhất thế gian như bạch câu quá khích, hà chí tự khổ như thử 人 生 一 世 間 如 白 駒 過 隙, 何 至 自 苦 如 此, nghĩa là người ta sinh ra trong đời như bóng bạch câu qua khe hở, cần gì phải làm khổ mình đến như vậy?
Nào dè Tiên cảnh rẽ phân,
Khác gì cửa sổ thoạt lần bóng câu.
(Thơ Thượng Cảnh Thanh).
Bóng câu vừa khuất nơi trần thế,
Hồn phách đã lên chốn cõi Bồng.
(Thơ Thuần Khiết),
Bóng: Hình dạng nhìn không rõ nét, hoặc có hình thấp thoáng. Cu 駒 (câu): Loài ngựa tốt.
Bóng cu, như chữ “Bóng câu”, do thành ngữ “Bạch Câu quá khích 白 駒 過 隙”, tức là bóng ngựa trắng qua khe hở, dùng để chỉ thời gian trôi qua nhanh.
Xem: Bóng câu.
Đoái xem lại trần dường thể tuyết mù,
Nhìn cuộc thế tợ bóng cu vó ngựa.
(Giác Mê Khải Ngộ).
Bóng chim: Bóng của chim (nhạn), do điển “tin nhạn”, chỉ tin tức. Tăm cá: Tăm tích của cá, lấy điển từ tin cá, ý nói về thư từ, tin tức.
Bóng chim tăm cá là một thành ngữ dùng để chỉ hình bóng của chim, tăm dạng của cá, có ý nói thư từ, tin tức do chim nhạn, hồng, hay cá mang đến.
Bóng chim tăm cá cùng nghĩa với “Tin chim thư cá”. Xem: Tin chim thư cá.
Cách trở ngàn trùng khôn giáp mặt,
Bóng chim tăm cá bặt từ lâu.
(Thơ Thiên Vân).
Bóng dâu, do chữ “Tang du 桑 榆”, dùng để nói cảnh về chiều hay chỉ tuổi già.
Tương truyền ở biển tây có cây “Tang du 桑 榆”, mặt trời đến đó thì lặn, nên người ta dùng chữ “Tang du” để chỉ cảnh mặt trời chiều hay chỉ tuổi già gọi là “Tang du vãn ảnh 桑 榆 晚 影”.
Tang du còn có nghĩa là phương tây, nên câu “Nhật lạc tang du 日 落 桑 榆” là mặt trời lặn về hướng tay, nói cảnh người già.
Vùn vụt thời gian đã xế tà,
Bóng dâu vừa ngả, tóc sương pha.
(Thơ Thiên Vân).
Bóng: Có bề mặt nhẵn, láng đến mức phản chiếu được ánh sáng.
Bóng dờn, như chữ “Bóng láng”, “Bóng lộn”, là bóng đến mức nhìn thấy cả sự trơn láng, mượt mà.
Như: Mặt bộ ván bóng dờn.
Áo quần hàng lụa bóng dờn,
Năm thê bảy thiếp tình nhơn cũng nhiều.
(Thơ Hộ Pháp).
Bóng: Ánh sáng do mặt trời, mặt trăng rọi xuống. Dương: Thái dương, chỉ mặt trời.
Bóng dương là chỉ bóng mặt trời.
Vầng thái dương (Mặt trời) tượng trưng cho vua, nên bóng dương cũng dùng để chỉ nhà vua.
Bóng dương tỏ rạng lố chơn mây,
Đầm ấm hơi xuân nở mặt mày.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Bóng: Hình ảnh không rõ nét. Hình: Dung mạo của một vật bày ra ngoài.
Bóng hình, như chữ “Hình bóng”, là chỉ cái hình ảnh không rõ nét, hoặc thấp thoáng.
Điếu văn của Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu, Chưởng Quản Nữ phái, đọc trước Liên đài của Đức Thượng Sanh có câu: Ðức Ngài đăng Tiên lẽ dĩ nhiên nơi cửa Ðạo từ đây vắng bóng hình, sao khỏi ngậm ngùi thương xót đau buồn, ấy là thường tình thế sự.
Vói nhắn khách Dạ đài có tưởng,
Vậy bóng hình để tướng nơi nao?
(Kinh Thế Đạo).
Từ độ ấy bóng hình biệt dạng,
Hạc với gà đôi bạn đồng tâm.
(Thơ Hộ Pháp).
Bóng: Hình dạng nhìn không rõ nét, hoặc có hình thấp thoáng. Hồng 紅: Màu hồng.
1.- Bóng hồng, bởi chữ “Mỹ nhân hồng ảnh 美 人 紅 影”, tức là bóng hồng của người đẹp, ý muốn diễn tả dáng điệu, hình bóng của người phụ nữ đẹp.
Nhị châu Chơn võ nhớ cùng không,
Nương cõi Thiên cung gởi bóng hồng.
(Nhị Nương Giáng Bút).
Ngôi Thiên để dựa bóng hồng,
Phục hưng gầy nghiệp con Rồng cháu Tiên.
(Bát Nương Giáng Bút).
2.- Hồng 鴻: Một thứ chim thuộc về loài ngỗng.
Bóng hồng, chỉ bóng con chim hồng, hay hồng tín, dùng để nói về thư từ tin tức.
Xem: Tin nhạn.
Một chiếc quạnh bóng hồng nháng ngọn,
Mây đoanh non tuyết đóng nhành thông.
Về nam đỗ cánh rừng tòng,
Ngút xem tủa án cây đông khoả rèm.
(Lục Nương Giáng Bút).
3.- Bóng hồng còn dùng để chỉ ánh sáng màu đỏ, hoặc bóng mặt trời.
Như: Chiều tà bóng hồng đã khuất núi.
Kìa chiếu diệu bóng hồng Bắc Đẩu,
Kìa im lìm phúc hậu Nam Tào.
(Kinh Tận Độ).
Bóng hồng lố cánh thoàn thơ thới,
Thiện niệm chờ cạn gởi nỗi đau.
(Nhàn Âm Đạo Trưởng).
Bóng: Ánh sáng mặt trời, hình bóng. Khuất: Che khuất hay mất đi, chỉ sự chết.
1.- Bóng khuất là bóng mặt trời bị núi non, cây cối che khuất, chỉ mặt trời về chiều.
Cúc rải đường qua vang tiếng nhạn,
Rừng tà bóng khuất vẳng hơi thung.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
2.- Bóng khuất, đồng nghĩa với “Khuất bóng”, nghĩa là hình bóng đã khuất, ý muốn nói đã chết rồi.
Việc lành, việc dữ đồn vang,
Tuy là bóng khuất xương tan tiếng còn.
(Kinh Sám Hối).
Lịch sử lưu đời dầu để dấu,
Muôn năm bóng khuất tiếng thơm còn.
(Thơ Chánh Đức).
Bóng mát: Nơi được che mát, ánh nắng không soi tới. Cội tòng (tùng): Gốc cây thông.
Bóng mát cội tòng (tùng), ý chỉ người chồng, là nơi che chở và nương cậy của người đàn bà theo chồng.
Bóng mát cội tòng (tùng) đồng nghĩa với câu núp bóng tùng quân.
Phải dòm coi bóng mát cội tòng,
Biết lựa mặt anh hùng trao tấm phận.
(Phương Tu Đại Đạo).
Bóng ngà: Cũng như chữ “Bóng ngọc”, chỉ người con gái đẹp. Nữ dung: Hình dáng người con gái đẹp.
Bóng ngà nữ dung chỉ dáng vẻ hay hình bóng người phụ nữ đẹp.
Vợ con thay phận mẹ già,
Nuôi con mẹ cậy bóng ngà nữ dung.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Bóng: Ánh sáng mặt trời, mặt trăng rọi xuống. Ngân 銀: Bạc, màu bạc.
Ánh sáng mặt trời soi xuống màu sáng bạc, mà bạc là ngân, nên người xưa gọi bóng mặt trời là “Bóng ngân”.
Ba đào qua, lố bóng ngân,
Toàn cầu cả thấy nhân quần đắp xây.
(Xuân Hương Giáng Bút).
Bóng: Ánh sáng mặt trời, mặt trăng rọi xuống. Ngọc: Châu ngọc, ngà ngọc.
Bóng ngọc, nói tắt của “Bóng thỏ ngọc”, chỉ bóng mặt trăng.
Giả Đảo có câu: Ngọc thố đàm để một 玉 兔 潭 底 沒, nghĩa là ngọc thỏ ở dưới đáy đầm lặn mất.
Bóng ngọc còn dùng để chỉ bóng dáng người ngọc, tức bóng dáng người con gái đẹp đẽ.
Dưới trăng bóng ngọc còn nguyên,
Ôm bình, bao tóc sang hèn cũng cam.
(Kinh Thế Đạo).
Bóng: Ánh sáng mặt trời, mặt trăng rọi xuống. Nguyệt 月: Mặt trăng.
Bóng nguyệt tức là bóng mặt trăng.
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du Tiên sinh có câu: Chênh chênh bóng nguyệt xế mành, Tựa nương bên triện một mình thiu thiu.
Thử sánh ngọn đèn cùng bóng nguyệt,
Gió lay đèn tắt, nguyệt làu làu.
(Giới Tâm Kinh).
Ðường về muốn vẹn để công trình,
Bóng nguyệt tua dò nẻo rạng thinh.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Hay “Bóng nhựt”.
Bóng: Ánh sáng mặt trời, mặt trăng rọi xuống. Nhật (Nhựt): Mặt trời.
Bóng nhật (Nhựt), đồng nghĩa với bóng dương, là chỉ bóng mặt trời.
Rừng thung bóng nhựt đã hầu chinh,
Tỏ rạng gần nơi bước vẹn gìn.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Ðạo đức gắng theo đỡ ít nhiều,
Ngày thâu bóng nhựt đã hầu xiêu.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Bóng: Ánh sáng mặt trời, mặt trăng rọi xuống. Quạ: Đồng nghĩa với chữ “Ô, ác”, chỉ con quạ.
Bóng quạ, như chữ “Bóng ô”, là bóng con chim quạ, dùng để chỉ bóng mặt trời.
Xem: Bóng ác.
Kiếp sống thác cuộc trần mau như bóng quạ,
chốn phù sanh trăm thu như lửa đá nháng nào lâu.
(Giác Mê Khải Ngộ).
Bóng: Ánh sáng. Quang 光: Sáng, chỉ ngày. Âm 陰: Bóng tối, chỉ đêm. Quang âm: Ngày đểm, chỉ thời gian.
Bóng quang âm là bóng của ánh sáng và bóng tối, ở đây chỉ ngày đêm thay đổi với nhau, hay nói cách khác là thời gian trôi qua đi.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Ngày qua thấm thoát, nhặt thúc bóng quang âm, xuân mãn kế xuân về, nước non màu cũng vẫn như xưa mà tâm hạnh nhơn tình biết bao thay đổi.
Việc sanh tử như dường chớp nháng,
Bóng quang âm ngày tháng dập dồn.
(Kinh Sám Hối).
Bóng: Ánh sáng mặt trời, mặt trăng rọi xuống. Quế 桂: Cây quế.
Tục truyền trên mặt trăng có cây quế, nên “Bóng quế” được dùng để chỉ mặt trăng.
Theo Dậu Dương Tạp Trở, có người họ Ngô tên Cương ở đất Tây Hà, học được phép Tiên, có lỗi bị phạt chặt cây quế cao năm trăm trượng ở cung trăng, nhưng khi đốn xong, cây quế lại liền như cũ.
Hồn ma bóng quế cũng lên ngồi, mà ngạ quỷ vô thường cũng xẩn bẩn, đó là phương đem đường cho Quỷ vương, chẳng một ai tránh được.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
Bóng: Hình bóng. Sắc: Nhan sắc, chỉ vẻ đẹp của người phụ nữ.
Bóng sắc là hình bóng và nhan sắc, tức chỉ chung sắc đẹp của người đàn bà, con gái.
Bởi ham bóng sắc hơn chì,
Mỹ nhân thấy dạng kể gì đến duyên.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Chẳng chịu chồng thương kẻ hơn mình,
Giận sao có dể khinh bóng sắc.
(Phương Tu Đại Đạo).
Bóng: Ánh sáng mặt trời, mặt trăng rọi xuống. Tang du: Một loại cây ở biển Tây, dùng để nói cảnh về chiều hay chỉ tuổi già.
Bóng tang du, bởi chữ “Nhật lạc tang du 日 落 桑 榆”, là mặt trời lặn xuống ở gốc cây dâu, cây du, có nghĩa bóng nắng buổi chiều, ý chỉ cảnh già.
Nhân đó, người ta nói cảnh tượng người già gần chết thì nói: “Tang du vãn ảnh 桑 榆 晚 境”.
Xác thịt trải qua miền gió bụi,
Nắm xương nhờ gởi bóng tang du.
(Thơ Thuần Đức).
Bóng: Vùng không được ánh sáng chiếu tới do bị một vật che khuất. Tối: Không có ánh sáng.
Bóng tối là phần không gian không có ánh sáng rọi tới nơi đó.
Khi giải thích về Đạo, Giáo Lý của Tiếp Pháp Trương Văn Tràng có đoạn viết: Cái bản thể ấy phía trên không phản chiếu ánh sáng, phía dưới không ẩn khuất bóng tối, vằng vặc mà chẳng có tên, rồi lại trở về chỗ không vật. Thật Đạo là hình trạng của cái vô hình, là tượng của cái vô vật.
Mảng sầu muộn ngổn ngang trăm mối,
Chùa thu không bóng tối mịt mờ.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Bóng: Vùng không được ánh sáng chiếu tới do bị một vật che khuất. Tùng 松 (tòng): Cây tòng, cây thông, một loài cây thẳng, cao to, cành lá xum xuê suốt bốn mùa, được người xưa ví với người quân tử.
Bóng tùng chỉ bóng của người chồng, nơi che chở và nương cậy của người vợ, vì thế, người đàn bà theo chồng gọi là núp bóng tùng quân.
Dìu nhau trở bước lại rừng thung,
Ðằng cát may đưa dựa bóng tùng.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Tại nơi chích mát bóng tùng,
Trần hoàn vì nỗi đau lòng hồng nhan.
(Đạo Sử).
Bóng: Ánh sáng mặt trời, mặt trăng rọi xuống. Thiềm: Con thiềm thừ ở trên cung trăng.
Bóng thiềm, bởi chữ “Thiềm ảnh 蟾 影”, nghĩa là bóng của con thiềm thừ.
Do tích Hằng Nga sau khi trộm thuốc tiên của chồng là Hậu Nghệ, uống vào thành tiên lên ở cung trăng và hoá thành con thiềm thừ. Nên mặt trăng được gọi là “Bóng Thiềm” hay “Thiềm cung”, “Cung thiềm”.
Xem: Cung thiềm.
Khêu ngọn hoa đăng tỏ bóng thiềm,
Trăng ba canh sáng đọng cành chim.
(Thơ Hoàng Nguyên).
Bóng: Ánh sáng. Thiều: Mùa xuân.
Bóng thiều, bởi chữ “Thiều quang 韶 光” là ánh sáng đẹp chỉ mùa xuân, hoặc thời gian.
Thánh Giáo có câu: Ðạo Trời khai dẫn bước lỗi lầm, đem kẻ hữu căn lánh vòng phiền não. Nếu chẳng bả bươn nhặt thúc bóng thiều, kiếp phù sinh qua dường nháy mắt.
Hương huê đã nực bóng thiều qua,
Tưởng chút nghĩa xưa thắt ruột rà.
(Đạo Sử).
Thưa nhặt thoi đưa cái bóng thiều,
Anh hùng xuất thế biết bao nhiêu.
(Thơ Hộ Pháp).
Mịt mịt mây bay cuộn bóng thiều,
Trời thu ướt át cảnh buồn hiu.
(Thơ Thượng Sanh).
Bóng: Ánh sáng mặt trời, mặt trăng rọi xuống. Thỏ: Giống thú thuộc loài gậm, ăn cỏ, lấy lông làm bút.
Bóng thỏ, bởi chữ “Thố ảnh 兔 影”, tức là bóng con thỏ, chỉ bóng mặt trăng.
Tương truyền, trên mặt trăng có một con thỏ bạch. Vì vậy, trong văn chương người ta thường dùng chữ “Bóng thỏ”, “Thỏ bạc” để chỉ mặt trăng.
Xào xạc sân ngô rơi chiếc lá,
Tròn vo bóng thỏ lộng ngàn phương.
(Thơ Thuần Đức).
Bóp: Lấy tay nắm chặt và siết mạnh một vật gì trong lòng bàn tay. Méo: Đồ vật gì sai hẳn cái hình nhất định.
Bóp méo là do dụng ý không tốt, nên làm cho hay trình bày cho sai lệch sự thật.
Cúi ngửa giữ cho lòng khỏi thẹn,
Mặc ai toan bóp méo ra tròn.
(Thơ Thuần Đức).
Bọt là những bong bóng do nước tạo thành, nổi trôi trên ngọn sóng ở ngoài ghềnh, dễ tan vỡ.
Như: Bọt nước, bọt bia tràn đầy ly, bọt xà phòng đầy thau quần áo.
Mảng đeo đai hai chữ vận thời,
Như bèo bọt nổi trôi giòng khổ thuỷ.
(Phương Tu Đại Đạo).
Phú quý dường mây treo dưới gió,
Lợi danh như bọt nổi trên dòng.
(Thơ Cao Liên Tử).
Bọt: Những bong bóng do nước tạo thành, nổi trôi trên ngọn sóng ở ngoài ghềnh, dễ tan vỡ. Bèo: Cây sống trên mặt nước.
Bọt bèo, như chữ “Bèo bọt”, là bèo và bọt nước, dùng để ví thân phận hèn mọn, không nơi nương tựa.
Như: Thân phận bèo gian truân.
Ðời gẫm suy coi tợ bọt bèo,
Nhơn tình say đắm hoạ liền theo,
(Đại Thừa Chơn Giáo).
Bọt: Những bong bóng nhỏ do nước tạo thành, nổi trôi trên ngọn sóng ở ngoài ghềnh, dễ tan vỡ. Nước: Chất lỏng không màu, không mùi và trong suốt.
Bọt nước được dùng để chỉ sự trôi nổi, linh đinh, không có định sở, hay mỏng manh tạm bợ dễ tan vỡ như bọt nước.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Ðời mộng ảo nầy, sự còn mất như bọt nước mây bay, khá quy chánh cải tà, nắm giữ lòng thiện niệm thì một mai mới tránh khỏi bẫy vô thường của Quỷ vương đương giành xé.
Sang hèn bọt nước hay vày vẽ,
Vinh nhục đám mây khéo cợt trò.
(Thơ Chánh Đức).
Bô: Một loại cây trồng, dùng để dệt vải. Vải: Đồ dệt bằng sợi bông.
Bô vải là vải dệt bằng sợi bô, một loại vải thô, kẻ ẩn dật hay người tu thường dùng để tạm che thân.
Thánh giáo Chí Tôn có dạy: Vì tại sao Thầy muốn các con mặc đồ bô vải chăng? Vì bô vải là tấm gương đạo đức, các con đã rõ đạo thì biết đức cần kiệm là đức hạnh đầu trong lúc các con còn ở thế gian nầy.
Lục chu may trộn giống màu thanh,
Bô vải mà che một tấc thành.
(Đạo Sử).
Bô vải bốn mùa che ấm lạnh,
Nghèo mà cho sạch, rách cho thơm.
(Thơ Thuần Đức).
1.- Bố tức là cha, tiếng thời xưa dùng để xưng, gọi cha là “Bố”, mẹ là “Cái”.
Như: Bố chồng, bố vợ, con giống bố, bố mẹ giàu con có bố mẹ khó con không.
Thuở mà nòi giống nầy còn kêu cha là bố và mẹ là cái, kẻ nào đạt được vị Bố Cái hương đảng, tức là cha mẹ của hương đảng,...
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
2.- Bố 布 là vải, đồ dệt bằng sợi bông để may quần áo mặc, không dùng một mình.
Như: Bố kinh (quần bằng vải, trâm bằng gai), bố quần kinh thoa.
Cùng nhau giữ trọn hương nguyền,
Cái duyên kinh bố là duyên Châu Trần.
(Nữ Trung Tùng Phận).
3.- Bố 布, còn đọc là “Bá”, là chia bày ra, truyền rộng ra, không dùng một mình.
Như: Dán bố cáo cho mọi người biết, đem tiền bố thí cho người khuyết tật.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có đoạn dạy: Vì vậy mà nhiều sự xảy ra đều do nơi tâm chí của nhiều đứa. Thầy hằng dùng tâm chí của các con mà bố mọi điều thiết yếu trong việc đạo đức.
Đại Thánh Địa Tạng Vương Bồ Tát.
Bố từ bi tế bạt vong hồn,
(Kinh Tận Độ).
Tiền nhân bố đức khai cơ nghiệp,
Hậu đại nhớ ơn dựng thổ cương.
(Thơ Huệ Giác).
布 告
Bố: Tuyên cáo rộng ra, chia bày ra. Cáo: Báo cho biết, xin phép, trình thưa.
Bố cáo, như chữ “Bá cáo 播 告’, là phổ biến hoặc truyền rộng ra cho ai nấy đều biết.
Trong quyển Giáo Lý, Ngài Tiếp Pháp Trương Văn Tràng giải thích việc hôn về phần Thế Luật có viết: Trước lễ thành hôn tám ngày, chủ hôn trai phải dán bố cáo tại Thánh Thất sở tại, gọi là Bát Nhựt. Ấy là ngừa sự trắc trở về sau. Lễ hôn phối cần cầu chứng nơi Thánh Thất sở tại.
Tám ngày trước lễ sính, chủ hôn trai phải dán bố cáo nơi Thánh Thất sở tại cho trong bổn đạo hay, sau khỏi điều trắc trở.
(Tân Luật).
布 德
Bố: Bày ra khắp nơi. Đức: Những điều nhân đức.
Bố đức là ban bố điều nhân đức rộng khắp cho tất cả mọi người.
Như: Thi ân bố đức, Đức Chí Tôn khai đạo Cao Đài là bố đức cho toàn thể sanh chúng.
Tiền nhân bố đức khai cơ nghiệp,
Hậu đại nhớ ơn dựng thổ cương.
(Thơ Thượng Sanh).
Bố đức độ đời ơn Phật thưởng,
Thi nhân tế chúng phước Trời ban.
(Thơ Thái Đến Thanh).
布 德 施 恩
Bố đức: Ban bố điều nhân đức khắp nơi. Thi ân: Thi hành ơn huệ.
Bố đức thi ân hoặc thi ân bố đức, là nói người thường hay làm ơn, tạo phước đức rộng khắp nơi.
Xem: Thi ân bố đức.
Biết lo bố đức thi ân,
Luân hồi trở lại hưởng phần cao sang.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
布 化
Bố: Truyền khắp, truyền rộng. Hoá: Thay đổi, dạy dỗ để thay đổi từ dốt nát ra hiểu biết, từ xấu ra tốt.
Đem những điều hiểu biết ra dạy dỗ khắp hết mọi người để sửa đổi từ xấu thành tốt, từ ác trở nên lành, đó gọi là Bố hoá.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thầy dạy: Trung! đã thọ mạng nơi Thầy, con đi đâu Thầy theo đó. Lời đạo đức trong miệng con nói ra, ấy là lời Thầy bố hoá tâm trí con đặng đi truyền đạo, tuỳ cơ mà dạy kẻ, một mình con đâu đủ sức phục người.
Bố hoá người đời gây mối Đạo,
Gia ân đồ đệ dựng nền nhân.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Đạo Thánh mở, phú một tay truyền bá, lãnh mạng Trời bố hoá khắp hoàn cầu,
Giọt sương gieo, vì trăm họ khát khao, vưng Thánh giáo rưới nhuần võ lộ.
(Văn Tế Thượng Phẩm).
布 荊
Bố: Vải, hàng dệt bằng sợi bông, thường thô. Kinh: Một thứ cây gai, dùng dệt vải.
Bố kinh, do thành ngữ “Bố quần kinh thoa 布 裙 荊 釵”, nghĩa là quần bằng vải bô, trâm cài đầu bằng gai, dùng để chỉ người vợ giản dị, hiền đức.
Bố kinh, lấy điển tích nàng Mạnh Quang khi về nhà chồng lột bỏ hết đồ gấm lụa, trang sức quý giá để mặc áo vải bô, dùng gai làm thoa giắt tóc (Kinh thoa bố quần), rồi theo chồng làm việc.
Chữ “Bố kinh” và các từ kinh nhơn, kinh phụ, sơn kinh, chuyết kinh cũng dùng để chỉ người vợ hiền thục.
Nếu gặp phước bố kinh đáng khách,
Biết yêu hoa dưới ngạch phòng thu.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Vì chàng thiếp kết bố kinh,
Giữ câu thệ hải sơn minh với nàng.
(Nữ Trung Tùng Phận).
布 施
Bố: Truyền khắp, truyền rộng ra. Thí: Cho, tặng để cầu phước.
Bố thí là giúp đỡ rộng rãi, trao tặng những vật chất và tinh thần của mình cho người, làm lợi ích người.
Bố thí là cho, giúp đỡ, trao tặng vật chất hoặc tinh thần của mình cho người nghèo khổ, thiếu đói. Bố thí là do phát khởi lòng thương đối với người mà làm lợi ích cho họ.
Trong Kinh Sám Hối có câu:
Thí tiền, thí bạc, chẩn bần,
Người đau thí thuốc, Thánh, Thần phước ban.
Có ba cách bố thí:
- Tài thí là bố thí bằng cách giúp đỡ người nghèo đói, thiếu thốn, đau yếu bằng những phương tiện vật chất như tiền của, đồ đạc thức ăn, thuốn men và cúng dường cho người tu hành. Người thực hành tài thí sẽ được hưởng quả báo lành.
- Pháp thí là bố thí bằng cách thuyết pháp, giảng dạy giáo lý và các hình thức truyền bá chánh pháp như viết, dịch, ấn tống kinh sách để độ cho người tu sửa thân tâm. Đem giáo pháp của Đức Chí Tôn ra chỉ dạy cho người tu tập, chỉ rõ con đường sống hợp với đạo lý, dẫn đến hạnh phúc an lạc, hướng về giác ngộ giải thoát.
- Vô úy thí là phép bố thí làm cho người khác hết sợ hãi, trấn an, khuyên nhủ người bị lo lắng, sợ sệt để được an tâm, có sự bình tỉnh, yên ổn về tinh thần.
Bố thí là hành động vừa biểu lộ và nuôi dưỡng lòng từ bi, xả bỏ tâm tham ái keo kiệt, đem lại cho mình và mọi người được an vui, hạnh phúc, vừa tạo được phước đức. Như vậy, bố thí vừa độ người mà vừa độ mình.. Bố thí trước hết được coi là phương tiện đối trị lòng ham muốn, tánh ích kỷ, lòng keo kiệt và để tránh được đau khổ ở đời sau.
Theo Phật pháp đúng nghĩa bố thí phải có ba điều dưới đây:
Không nghĩ mình là người năng thí (thi ân).
Không nghĩ người nhận là kẻ thọ thí (thọ ân).
Không nghĩ vật ban cho là vật sở thí.
Chánh Phủ bị lo lắng điều gay trở khó khăn nên chỉ bố thí một số tiền vậy thôi, chớ nào có thì giờ rảnh đặng để tâm lo lắng đến sự sống cho thiên hạ.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
布 置
Bố: Tuyên cáo ra, chia bày ra. Trí: Đặt để.
Bố trí là xếp đặt, tức là sắp xếp theo một trật tự và theo một dụng ý nhất định.
Bà Nữ Đầu Sư Lâm Hương Thanh có câu: Nếu Lịnh Bà (Quan Âm Bồ Tát) lấy lòng từ bi thương tình dìu dắt Nữ phái thì đệ tử cũng nhứt nguyện lo lắng với mấy anh cho hoàn toàn, nhưng xin Lịnh Bà bố trí cho đệ tử hành sự đặng trọn.
Bố trí cho chư Ðạo hữu con hiểu rõ. Nguồn cội Tiên Phật do yếu nhiệm là tại đó.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
1.- Bồ là vật đan thành tấm bằng tre hoặc nứa, dùng khoanh tròn lại để chứa, đựng.
Như: Bồ lúa, miệng Nam mô đựng bồ dao găm.
Ca dao có câu: Dốc bồ thương kẻ ăn đong, Vắng chồng thương kẻ nằm không một mình.
Cha mẹ giàu để con bồ lúa,
Cha mẹ nghèo để đũa ăn cơm.
(Phương Tu Đại Đạo).
2.- Bồ 蒲 là tên một thứ cỏ có thân mềm yếu, nên người xưa thường ví với người con gái.
Như: Bồ liễu, phận bồ, bồ tiên.
Hễ người mạnh thì hay cậy sức,
Phận liễu bồ lấy lực mưu mô.
(Phương Tu Đại Đạo).
3.- Bồ 菩, viết tắt của chữ “Bồ đề 菩 提”, là tên một thứ cây có hạt dùng để xâu chuỗi, thuộc về Phật.
Ngày xưa, dưới gốc cây bồ đề là nơi Đức Phật tu hành đắc Đạo. Vì vậy từ “Cửa bồ đề” dùng để chỉ cửa Phật hay cửa chùa. Như: Cửa bồ, chuỗi bồ.
Chuỗi bồ trừ nghiệt gió trăng,
Linh đơn cứu kẻ khổ phần liễu hoa.
(Nữ Trung Tùng Phận).
匍 匐
Bồ bặc là bò đi hay đi một cách khúm núm.
Bồ bặc còn một nghĩa là giúp đỡ trong việc tang ma.
Sách xưa có câu: “Bồ bặc bôn tang 匍 匐 奔 喪”, tức bò lấp xấp về chịu tang, bởi thương quá không đi được phải chống tay mà bò về.
Cảm nghĩa chi lan hoà nỗi thảm,
Tưởng câu bồ bặc khấn hương nồng.
(Thơ Huệ Ngàn).
菩 提
1.- Bồ đề là cây Bồ đề, một loại cây cao, to lá bầu tròn, hạt dùng xỏ xâu làm chuỗi để niệm Phật.
Chính Đức Thích Ca Mâu Ni đã ngồi thiền dưới gốc cây Bồ đề nầy mà đắc Đạo.
Đứng trước Tổ đình dợn sắc lam,
Bồ Đề khác hẳn mọi cây phàm.
(Thơ Chơn Tâm).
2.- Bồ đề, theo giáo lý Phật, còn dùng để chỉ sự tỉnh thức, hay giác ngộ.
Như: Chứng quả bồ đề, bồ đề tâm.
Mượn Bồ đề quày quả thế thôi,
Chẳng phải kệ với kinh năng đúc Phật.
(Ngọc Hoàng Thượng Đế).
Quán tục răn lòng rời sắc giới,
Bồ đề vọng niệm nhập đài vân.
(Thơ Bạch Nhạn).
菩 提 夜
Bồ Đề Dạ, Hán dịch từ Phạn ngữ Buddhaya, là một vị Bồ Tát do Đức Quán Thế Âm Bồ Tát hoá thân.
Theo Kinh “Đại Bi Tâm Đà Ra Ni Xuất Tượng”, Tổ Văn Thê Đại Sư đem 84 câu của Chú Đại Bi hoạ ra thành những bức tượng: Hoặc hình Phật, hình Bồ Tát, hình các Thánh nhị thừa, hoặc hình Phạm Thiên Đế Thích, hoặc các hình Thần tướng Kim Cang... Những hình tượng đó đều có nhiều bộ dạng khác nhau, hoặc từ bi, hoặc Thánh dung, hoặc hung tợn, hoặc phàm tướng. Tất cả đều từ nơi Thánh trí, lòng đại bi của Đức Quán Thế Âm hoá hiện ra để cứu giúp chúng sanh.
Câu Chú Đại Bi số 46 là tượng Bồ Đề Dạ Bồ Đề Dạ 菩 提 夜 菩 提 夜 (Buddhaya Buddhaya), tức là Quán Âm hiện tướng diện mạo từ bi, thân cận trẻ con giáo hoá lợi ích chúng sanh.
Bồ Đề Dạ dẫn hồn thượng tấn,
Cực Lạc Quan đẹp phận Tây Quy.
(Kinh Tận Độ).
蒲 團
Bồ: Cỏ bồ, lá già dùng để dệt chiếu, đương đệm, hay làm túi đựng đồ vậy. Đoàn: Hình tròn.
Bồ đoàn là một tấm chiếu hình tròn được kết bằng cỏ bồ, dùng để các nhà sư ngồi thiền hay quỳ lạy, lễ bái.
Âu Dương Chiêm có câu: Thảo tịch bồ đoàn bất tảo trần 草 席 蒲 團 不 掃 塵, nghĩa là chiếu cỏ bồ đoàn không quét bụi.
Bồ đoàn mạc hám liên huê thất,
Tác thế tâm ưu khởi đạo tông.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Bồ đoàn tưởng niệm tâm an lạc,
Chí ở bốn phương chẳng đổi dời.
(Prasey Prakhet).
蒲 柳
Bồ: Một thứ cỏ có thân mềm yếu, nên người xưa thường ví với người con gái. Liễu: Cây dương liễu.
Bồ liễu là một loại cây dương mọc bên bờ nước, còn có tên thuỷ dương. Thân cây bồ liễu có thể chất mềm yếu, nên người ta thường ví với thân người phụ nữ yếu đuối.
Cố Quân Thục đời Tấn, cùng tuổi với vua Giản Văn Đế mà đầu bạc sớm, vua hỏi thì nói: Bồ liễu chi tư vọng thu nhi lạc 蒲 柳 之 姿 望 秋 而 落, tức là cái tư chất loài bồ liễu, hễ thấy mùa thu là rụng.
Xem: Liễu bồ.
Thương người nặng nghĩa hơn phiền,
Đem thân bồ liễu làm thuyền độ phu.
(Thất Nương Giang Bút).
Thiếp hổ thân bồ liễu,
Ngày dựa cửa trâm anh.
(Tuý Sơn Vân Mộng).
Cô thân chịu phải xa ngàn dặm,
Bồ liễu giữ an phận mối giềng.
(Thơ Chánh Đức).
菩 薩
Bồ Tát, do chữ Phạn bodhi sattva, phiên âm Hán là Bồ Đề Tát Đoá, dịch nghĩa là giác hữu tình, hay giác ngộ chúng sinh.
Bồ Tát là bậc đã giác ngộ, nhưng không an hưởng Niết Bàn, mà lo cứu độ chúng sanh tự giác giác tha, tự độ độ tha.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Đức Chí Tôn có dạy: Các con coi bậc Chí Tôn như Thầy mà hạ mình đặng độ rỗi nhơn sanh là thế nào, phải xưng là một vị Tiên Ông và Bồ Tát là hai phẩm chót của Tiên, Phật.
Ánh Xá lợi sáng ngời Cực Lạc,
Hiển kim thân Bồ Tát hoá duyên.
(Xưng Tụng Công Đức).
Công cả các con là đáng nhứt,
Vì con Bồ Tát hết cư trần.
(Đạo Sử).
蒲 鞭
Bồ: Tên một thứ cỏ mềm. Tiên: Cây roi.
Bồ tiên là cây roi bằng cỏ bồ. Ý nói dùng roi bồ làm hinh phạt để dân biết nhục mà thôi.
Xem: Bồ tiên thị nhục.
Quơi bồ tiên mượn quyền thị nhục,
Cải tai ương ra phúc vĩnh tồn.
(Bát Nương Giáng Bút).
蒲 鞭 示 辱
Bồ tiên: Cây roi được kết bằng cỏ bồ. Thị nhục: Nêu lên để biết nhục.
Bồ tiên thị nhục ý nói Lưu Khoan phạt dân bằng roi bồ để biết nhục mà sửa cải lỗi lầm.
Theo Hán thư: Lưu Khoan là vị thái thú ở Nam Dương, tánh khoan dung, độ lượng và lại hay thương dân nghèo khổ. Mỗi khi trong hạt có người phạm lỗi, ông chỉ dùng roi bồ mà đánh, ý không muốn dân chịu hình phạt đau đớn, cốt để người chịu đòn nhục mà ăn năn chừa lỗi.
Nên sách có câu: “Hán Lưu Khoan trách dân bồ tiên thị nhục” 漢 劉 寬 責 民 蒲 鞭 示 辱, nghĩa là ông Lưu Khoan nhà Hán trị dân chỉ lấy roi bồ đánh để làm nhục cho sửa lỗi mà thôi.
Hớn Lưu Khoan trách dân bồ tiên thị nhục,
Hạng Trọng Sơn khiết kỷ ẩm mã đầu tiền.
(Thanh Ngôn Hiệp Tuyển).
1.- Bổ là lao mạnh toàn thân, đập mạnh vào vật gì.
Như: Sóng bổ vào gành đá, thằng bé nhảy bổ vào người, máy bay nhào lên bổ xuống.
Lượn thảm bổ gành tình ột ạt,
Gió sầu xô đảnh ái tơi bời.
(Thơ Nặc Danh).
2.- Bổ 補 là bù bào chỗ thiếu.
Như: Uống thuốc bổ gan, bồi bổ dinh dưỡng, ăn uống thêm chất bổ, báo bổ.
Nguyện lấy sức đền ơn cương thổ,
Dốc lòng lo báo bổ ơn nhà.
(Kinh Cúng Chiến Sĩ).
3.- Bổ 補 là dùng một người để sung vào chức vị hay phẩm tước nào đó.
Như: Bổ chức sắc về các huyện, thi đậu được bổ làm giáo học, bổ nhiệm.
Bao Chức sắc phục tùng Thánh lịnh,
Bổ địa phương thức tỉnh nhơn sanh.
(Quang Cảnh Toà Thánh).
補 報
Bổ: Giúp đỡ. Báo: Đáp lại.
Bổ báo là báo đáp lại lời cầu xin.
Bổ báo, cũng như chữ “Báo bổ 報 補”, còn có nghĩa là đền đáp công ơn.
Như: Phận làm con phải lo bổ báo công ơn cha mẹ.
Xem: Báo bổ.
Lòng sở vọng gắn ghi đảo cáo,
Nhờ Ơn Trên bổ báo phước lành.
(Kinh Cúng Tứ Thời).
Ngài Hộ Pháp say ngây bổ báo,
Hiệp Thiên Đài rốt ráo chu toàn.
(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).
補 益
Bổ: Bù vào chỗ thiếu. Ích: Thêm nhiều lên, lợi ích.
Bổ ích là bù thêm, hoặc có lợi ích, có tác dụng tốt.
Thánh giáo Thầy có câu: Thầy ước sao các con biết tự lập thì Thầy mới vui lòng, chớ các con nhập môn cho đông, lãnh Thiên phong cho nhiều mà không đủ tư cách thì các con phải tự hỏi mình coi có bổ ích vào đâu chăng?
Nhiều Giáo Hữu không biết một nét chi về việc đạo, chư tín đồ không trông học hỏi đến đặng, thì Chức sắc còn có bổ ích chi.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
補 缺
Bổ: Bù vào chỗ thiếu. Khuyết: Thiếu, chỗ thiếu.
Bổ khuyết là thêm vào chỗ thiếu sót.
Thánh giáo Bát Nương Diêu Trì Cung trong Thánh Ngôn Sưu Tập có dạy: Em phân cho đại tỷ biết từ mấy chục năm nay, những người dìu Đạo vẫn sơ sót về phần dạy Đạo, nhưng nay cần phải bổ khuyết.
Bần đạo khuyên Thượng Sanh nên mềm dẽo để việc làm sẽ trả lời và nhơn việc làm sẽ thấy chỗ nào nên bổ khuyết.
(Thánh Giáo Hộ Pháp).
補 任
Bổ: Điền vào chức quan. Nhiệm: Gánh vác.
Bổ nhiệm là bổ dụng quan lại, tức cử giữ một chức vụ trong bộ máy của nhà nước.
Trong đạo Cao Đài, các chức sắc được bổ nhiệm đi hành Đạo ở các cơ quan hay ở địa phương.
Hội Thánh dâng danh sách các Chơn Nhơn cầu thăng lên Hiền Nhơn, Đức Hộ Pháp giáng cơ dạy: Bần đạo đã nói rồi, tuy nhiên sẽ có hai vị được thăng thưởng, đó là Chơn Nhơn Trung và Phú, nhưng chỉ được bổ nhiệm chức vụ Cố Vấn cho Hiệp Thiên Đài mà thôi. Sau có cơ hội, Bần đạo sẽ chỉ thêm.
Khâm Thành bổ nhiệm đúng vai tuồng,
Ngọc Nhượn tài lành đủ đảm đương.
(Thơ Thượng Sanh).
1.- Bộ là hình dáng hiện ra bên ngoài qua cử chỉ, cách đi đứng, dáng vẻ.
Như: Trông bộ rất quen, làm ra bộ chưa hiểu, chẳng ra gì lại hay làm bộ.
Thánh giáo Bát Nương Diêu Trì Cung trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có đoạn: Năm mới, chùa mới, vạn sự đều mới, vậy em đến cầu chúc cho quý anh quý chị đặng những điều mới mẻ may mắn. Tân Xuân đây, quý anh quý chị coi bộ ráng nông trang hành đạo.
Ghét có người làm bộ giả đò,
Ra giễu cợt làm trò thương hết ghét.
(Phương Tu Đại Đạo).
Khi chửa nghén tình thương đeo đắng,
Nhớ hình đi tướng đứng bộ ngồi.
(Phương Tu Đại Đạo).
2.- Bộ 部 là thống thuộc, khi dùng để chỉ những vật gì cùng một hạng mà phải theo với nhau. Như: Bộ bài, bộ ván, bộ thiết giáp, bộ Thiên phục.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có đoạn: Chung quanh các con, dầu xa dầu gần, Thầy đã thả một lũ hổ lang ở lộn với các con. Thầy hằng xúi chúng nó thừa dịp mà cắn xé các con, song trước Thầy đã cho các con mặc một bộ thiết giáp, chúng nó chẳng hề thấy đặng là đạo đức của các con.
...con phải may riêng bộ áo lễ tay rộng, cổ trịch như áo đạo, nhưng dải gài chín mối, màu xanh da trời.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
3.- Bộ 部 dùng để chỉ một toà có các viên chức coi riêng về một việc gì. Như: Bộ hình, bộ lễ, bộ lôi công, bộ nhạc, bộ pháp chánh.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Nghĩ đến công cuộc kiến tạo mà Bộ Nhạc Trung Ương phải tự túc để hoàn thành, tôi ý thức đến nỗi khó khăn cũng như sự nổ lực của toàn thể Chức sắc Bộ Nhạc đã đồng tâm nhứt trí mới đi đến thành công mỹ mãn.
Trừ quái khí roi thần chớp nhoáng,
Bộ Lôi Công giải tán trược quang.
(Kinh Tận Độ).
Côn trùng còn đoạt được nhơn duyên,
Ngũ bộ Lôi công định sát liền.
(Thiên Thai Kiến Diện).
4.- Bộ 簿 là sổ sách. Như: Bộ đinh, bộ điền, sổ bộ.
Thánh giáo Thầy có câu: Giáo Sư là người để dạy dỗ chư môn đệ trong đường Ðạo với đường Ðời. Buộc chúng nó lo lắng cho các con như anh ruột lo cho em. Chúng nó cầm sổ bộ của cả tín đồ. Chúng nó phải chăm nom về sự tang, hôn của mỗi đứa.
Còn sổ bộ của Tín Ðồ phải làm cho hoàn toàn. Các nơi phong thêm Trị Sự và Chức Việc chư Hương Ðạo đặng tiện lo cho chư Môn Ðệ của Thầy.
(Đạo Sử).
5.- Bộ 哺 là bú.
Như: Tam niên nhũ bộ (ba năm bú mớm).
Thành ngữ Hán Việt có câu: Thập nguyệt hoài thai, tam niên nhũ bộ 十 月 懷 胎, 三 年 乳 哺, nghĩa là mười tháng mang thai ba năm bú mớm, chỉ công lao của bà mẹ.
Cù lao chín chữ ơn chưa trả,
Nhũ bộ ba năm nghĩa chửa bồi.
(Thơ Thiên Vân).
6.- Bộ 步 là bước chân đi, coi là phương thức đi lại.
Như: Đi bộ, lính bộ, đường bộ, bộ hành, bộ binh.
Ðức tánh tàng thơ vô vị bần,
Lộ hành an bộ Ðạo tuỳ thân.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Xuyên dương trăm bộ đấng nên tài,
Vùi lấp bấy chầy chí khí trai.
(Đạo Sử).
Bộ công 部 工: Sách ghi chép công quả. Di Lạc (Di Lạc) 彌 勒: Một vị Phật làm chủ và khai mở hội Long Hoa.
Bộ công Di Lạc là sách ghi chép công quả của mỗi người ở thế gian trong thời Tam Kỳ Phổ Độ, do Đức Di Lạc Vương Phật làm chủ khảo và căn cứ công quả đó để định ngôi thứ nơi cõi thiêng liêng cho mỗi người.
Vào Lôi Âm, kiến A Di,
Bộ Công Di Lạc Tam Kỳ độ sanh.
(Kinh Tận Độ).
Bộ: Dáng cách, dáng vẻ. Dạng: Hình thể hiện ra khác nhau của một vật hay sự vật.
Bộ dạng là cử chỉ và dáng người, tức dáng vẻ bề ngoài. Như: Bộ dạng cao lớn, bộ dạng hung dữ.
Anh thời bộ dạng xấu xa,
Tôi thì như một đoá hoa vẹn mười.
(Thơ Hộ Pháp).
部 下
Bộ: Thống suất. Hạ: Dưới.
Bộ hạ là đầy tớ, quân lính hoặc viên chức thuộc về một chức quan nào cai quản.
Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Bần Đạo chỉ cho ngó thấy, nếu một tướng cướp muốn làm chúa thiên hạ, thâu thiên hạ trong tay, phải lấy tình đức đối đãi với kẻ bộ hạ mới thâu cả xương máu của họ đặng tô điểm địa vị của nó.
Cái quyền hành lớn lao ấy do Thầy ban cho nó, nên đặng quyền cám dỗ các con, xúi biểu các con, giành giựt các con mà làm tay chơn bộ hạ trong vòng tôi tớ nó.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
Bộ 部: Tiếng dùng để chỉ một ngành chuyên môn của Đạo Cao Đài. Nhạc 樂: Âm nhạc.
Bộ nhạc là một cơ quan chuyên môn của Đạo Cao Đài, có nhiệm vụ tổ chức các ban nhạc cúng tế và đào tạo các nhạc sĩ của Đạo.
Bộ nhạc được thành lập theo Thánh Lịnh số 25 của Đức Hộ Pháp ký ngày 29/3/Tân Mão (Dl. 4-5-1951), có 9 phẩm như sau:
|
1/ Nhạc Sĩ. |
|
2/ Bếp Nhạc. |
|
3/ Cai Nhạc. |
|
4/ Đội Nhạc. |
|
5/ Quản Nhạc. |
|
6/ Lãnh Nhạc. |
|
7/ Đề Nhạc. |
|
8/ Đốc Nhạc. |
|
9/ Nhạc Sư. |
|
Nhạc Sĩ |
|
đối phẩm |
|
Chánh Trị Sự. |
|
Bếp Nhạc, Cai Nhạc |
|
đối phẩm |
|
Lễ Sanh. |
|
Đội Nhạc, Quản Nhạc, Lãnh Nhạc |
|
đối phẩm |
|
Giáo Hữu. |
|
Đề Nhạc, Đốc Nhạc, Nhạc Sư |
|
đối phẩm |
|
Giáo Sư. |
Nhạc Sư khi đủ 5 năm công nghiệp thì có thể thăng lên Phối Sư, hay Tiếp Lễ Nhạc Quân, nếu phẩm nầy khuyết.
Đại phục: Chức sắc Bộ Nhạc là áo cụt khỏi trôn, màu đỏ, quần trắng có viền kim tuyến nơi cổ tay, ngay ngực có mang ba màu đạo (Tam Sắc Đạo), chính giữa thêu hình cây đờn tỳ bà. Dưới cây đờn thì để chức tước của vị chức sắc ấy. Từ Nhạc Sĩ trở lên tới Quản Nhạc viền kim tuyến bạc, từ Đề Nhạc đổ lên viền kim tuyến vàng. Đầu đội Hỗn Nguơn Mạo, giống hình Ngưỡng Thiên Mạo của Giáo Hữu Phái Ngọc, nhưng thấp hơn một chút, cao khoảng 12 cm, giữa mão ngay trước trán có tam Sắc Đạo, gác xéo một cây đờn tỳ bà.
Tiểu phục: Từ Nhạc Sư trở xuống Nhạc Sĩ đều mặc áo tràng trắng, có thắt ngang lưng một sợi dây nịt trắng, đầu đội Bán Nguyệt Mạo như cái Ca lô trắng (Giống Mão Đầu Phòng Văn), ngay giữa trán có huy hiệu hình chữ nhựt bằng kim khí, trên có Tam Sắc Đạo và cây đờn tỳ bà gác xéo.
Học Đường của Bộ Nhạc đã hoàn thành, đó là một công quả đáng ghi của Chức sắc Bộ Nhạc.
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
法 正 部
Bộ: Một ngành. Pháp: Pháp luật, Chánh: Sửa lại cho đúng, ngay thẳng.
Bộ Pháp Chánh là một cơ quan trực thuộc Hiệp Thiên Đài có nhiệm vụ trông coi pháp luật trong các cơ quan của Đạo.
Khi chưa thành lập Bộ Pháp Chánh, Đạo Luật năm Mậu Dần (1938) có lập ra Toà Đạo.
Toà Đạo là toà án của Đạo do Hiệp Thiên Đài lập ra để xét xử những chức sắc và tín đồ phạm pháp luật của Đạo, tức là một cơ quan bảo thủ chơn truyền, gìn giữ luật pháp, chăm nom chư chức sắc, chức việc và đạo hữu thi hành phận sự, chở che những kẻ yếu tha, binh vực những người cô thế, hoặc tiếp cả sự uất ức bất công của toàn sanh chúng, tức giữ nét công bình trên mặt đạo, lại cũng là một cơ quan giúp cho Hành chánh, Phước thiện và Phổ Tế thêm oai quyền mạnh mẽ, tôn nghiêm đặc sắc.
Ngày 27 tháng 11 năm 1947, Ngài Khai Pháp Trần Duy Nghĩa đảm nhận chức chưởng quản Toà Đạo. Ngài đứng ra tổ chức và lập nội luật của một cơ quan trung ương thuộc Hiệp Thiên Tài coi về quyền Tư pháp của Đạo, gọi là Bộ Pháp Chánh.
Từ đó, danh từ Bộ Pháp Chánh mới được dùng để chỉ một “cơ quan trung ương bảo thủ chơn truyền, giữ gìn luật pháp, dìu dẫn và lập vị cho con cái Đức Chí Tôn trong khuôn viên luật pháp của Đạo đã thành lập, giữ cân công bình thể Thiên hành hoá, có trách vụ nặng nề để binh vực kẻ cô thế, yếu hèn bị áp chế, để sửa răn những kẻ phạm pháp luật, hầu tránh khỏi Thiên Điều trừng trị, nếu bị thế trị thì mới mong giảm tội thiêng liêng, bằng không bị thế trị thì Thiên Điều không mong gì cầu rỗi.
Như vậy, Bộ Pháp Chánh là một cơ quan do Hiệp Thiên Đài lập ra để thi hành quyền Tư pháp, tức có nhiệm vụ giữ gìn luật pháp của Đạo cho thật ngay chánh, nghiêm minh để bảo thủ được chơn truyền theo đúng hai câu liễn ngoài cổng của Bộ Pháp Chánh như sau:
Pháp luật vô tư đạo giáo từ uy tùng lý.
法 律 無 私 道 教 慈 威 從 理
Chánh tông bất dịch chơn truyền thiện ác tuỳ hình.
正 宗 不 易 真 傳 善 惡 隨 刑
Nghĩa là:
Pháp luật không thiên vị ai nhưng hình phạt của tôn giáo thì hiền lành, thường theo lẽ phải.
Đạo chánh không có thay đổi chơn truyền nhưng việc thiện ác tuỳ theo hình phạt mà áp dụng.
Bộ Pháp Chánh được đặt dưới quyền chưởng quản của một vị Thời Quân Chi Pháp Hiệp Thiên Đài, dưới có một vị Trưởng Phòng trông coi ba phòng sau đây:
- Phòng Minh Tra (minh tra công nghiệp đạo của chức sắc).
- Phòng Thẩm Vấn.
- Phòng Nhân Viên.
Ngoài ra, dưới vị Trưởng Phòng, Bộ Pháp Chánh còn có một vị Quản Văn Phòng để phụ giúp công việc cho vị Chưởng Quản có Bí Thư và nhiều Phụ Trách.
Nhiệm vụ của Bộ Pháp Chánh được tóm tắt như sau:
1.- Bảo thủ luật pháp chơn truyền của Đạo.
Bộ Pháp Chánh sẽ kiểm soát hành vi hạnh kiểm của các chức sắc đi hành đạo để thu phục nhân tâm và để cho công việc phổ độ được tốt đẹp.
2.- Lập các Toà Đạo để xử trị những người từ đạo hữu đến chức sắc Cửu Trùng Đài hay Phước Thiện vi phạm pháp luật Đạo. Riêng chức sắc Hiệp Thiên Đài vi phạm luật pháp thì có Ban Kỷ Luật Hiệp Thiên Đài sửa trị.
Thẩm quyền của cơ quan nầy rất rộng lớn vì có thể nghị án, cảnh cáo hoặc trục xuất một chức sắc tùy theo phạm tội nặng hay nhẹ.
3.- Minh tra công nghiệp của chức sắc Cửu Trùng Đài và Phước Thiện.
Một chức sắc được thăng cấp hay không, chậm hay mau là tùy theo kết quả minh tra công nghiệp của cơ quan nầy.
4.- Phòng Kiểm duyệt Kinh luật.
Những kinh luật nào có tính cách làm tổn thương tinh thần đạo đức, Pháp Chánh Hiệp Thiên Đài cũng được phép đề nghị hủy bỏ.
Bộ Pháp Chánh là cơ quan ở Trung ương, ngoài ra còn có các ty Pháp Chánh ở mỗi Địa phương tại Trấn Đạo, Châu Đạo và Tộc Đạo.
Bộ Pháp Chánh sẽ bổ nhiệm các Chức sắc Hiệp Thiên Đài tiểu cấp để đảm nhiệm Pháp Chánh tại địa phương, như sau:
Pháp Chánh tại Trấn Đạo do một vị Truyền Trạng Hiệp Thiên Đài (đối phẩm Giáo Hữu) đảm nhiệm.
Pháp Chánh tại Châu Đạo do một vị Sĩ Tải Hiệp Thiên Đài (đối phẩm với Lễ Sanh) đảm nhiệm.
Pháp Chánh tại Tộc Đạo do một vị Luật Sự Hiệp Thiên Đài (đối phẩm với Chánh Trị Sự) đảm nhiệm.
Được quyền thay mặt Bộ Pháp Chánh bảo thủ luật pháp nơi các phiên Đại Hội Hội Thánh Cửu Trùng Đài và Đại hội Hội Thánh Phước Thiện.
(Hiến Pháp Hiệp Thiên Đài)
Bộ: Dáng vẻ bên ngoài của một người qua cử chỉ, cách đi đứng.
Bộ tịch là bộ điệu, chỉ chung sự thể hiện hình dạng qua cử chỉ, nói năng, hành động. Từ dùng có hàm ý tốt, một đôi khi lại có hàm ý chê.
Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Chúng ta đã ngó thấy các vị Thầy tu nhà Phật, cạo đầu bận đồ vàng, bộ tịch của họ dù cho đi, đứng, nằm, ngồi, cử chỉ cái sống của họ đều trong khuôn khổ do nơi Đạo Giáo mà xuất hiện đặc biệt.
Dạy đi đứng nghiêm trang bộ tịch,
Dạy nói năng cho lịch cho ngoan.
(Phương Tu Đại Đạo).
Bộ: Sổ sách. Từ 瓷: Đồ gốm sứ. Khí 器: Đồ dùng.
Bộ từ khí là một cuốn sổ (sách) ghi chép tất cả các thứ đồ thờ cúng và tài sản của Đạo như lư, chân đèn, chén bát, bàn ghế,...
Bộ từ khí của mỗi Thánh Thất hay Điện Thờ dùng để ghi chép tài sản của Đạo hầu dễ kiểm tra và gìn giữ, không cho thất thoát.
Mỗi Thánh Thất phải lập một cuốn Bộ từ khí biên các vật dụng của Đạo.
(Đạo Luật Mậu Dần).
Bốc là dùng ngón tay hay bàn tay nắm lấy vật gì lên. Như: Bốc bằng tay, ăn cơm bốc, bốc hốt.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển Thánh giáo Thầy có câu dạy: Kinh điển giúp đời siêu phàm nhập Thánh, chẳng khác chi đũa ăn cơm, chẳng có đũa, kẻ có cơm bốc tay ăn cũng đặng.
Ăn bốc chưa hay dơ ngón bốc,
Ham phàm ắt phải lụy cùng phàm.
(Đạo Sử).
Chị vắng mặt vô rờ ông táo,
Bốc tay dơ trã cháo trách canh.
(Phương Tu Đại Đạo).
Bốc: Hăng lên một cách quá mức trong chốc lát. Rời: Tách lìa khỏi.
Bốc rời là chỉ cái tánh tiêu tiền, dùng của hết sức hoang phí, xa xỉ.
Cơm ngày hai bữa dư chi uổng,
Mặc thế đua chen thói bốc rời.
(Đạo Sử).
Phải chi đặng để lòng khéo tính,
Noi gương cha nhịn tánh bốc rời.
(Phương Tu Đại Đạo).
1.- Bộc 僕 là người đầy tớ, kẻ ở. Như: Bộc lại, nô bộc, nội bộc.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Bần Ðạo đã quan sát cả lịch sử loài người ở Á Ðông thấy như thế, mà Á Châu cũng thế, tự quyền hành bán mọi là đặc sắc hơn hết của Ðế quyền Romain, coi con người không có giá trị bằng con vật, được trọn quyền sanh sát mà người chủ đã mua lại mạng sống của kẻ tôi mọi coi kẻ ấy như con vật. Ðến nay cường quyền Romain phải chịu huỷ bỏ việc làm tôi đòi nô bộc.
Tiếng đời ví dâu là nội bộc,
Lại gọi rằng ngoại tộc nữ sanh.
(Phương Tu Đại Đạo).
2.- Bộc 濮 là tên một con sông ở tỉnh Sơn Đông, nước Trung Hoa, xưa thuộc địa phận nước Trịnh, là một nơi trai gái hẹn hò nhau.
Như: Bộc dâu, trên Bộc trong Dâu.
Tại nơi mình dưới bộc trong dâu,
Ra đến thế nài cầu sao đáng giá.
(Phương Tu Đại Đạo).
Bộc 濮: Tên con sông ngày xưa ở nước Tàu, hiện nay ở tỉnh Sơn Đông. Dâu: Cây dâu.
Bộc dâu, bởi câu “Trên Bộc trong dâu” tức là trong nương dâu bên bờ sông Bộc. Chỉ thói tà dâm.
Lễ Ký có câu: Tang gian Bộc thượng chi âm, vong quốc chi âm dã 桑 間 濮 上 之 音, 亡 國 之 音 也, nghĩa là tiếng nhạc trong bãi dâu trên sông Bộc là tiếng nhạc làm mất nước.
Xem: Trên Bộc trong dâu.
Tình si hai chị đổi bao sầu,
Trở trách anh chừa thói Bộc dâu.
(Thiên Thai Kiến Diện).
暴 起
Bộc: Còn đọc là “Bạo”, là vội, chợt đến. Khởi: Dậy, dấy lên, bắt đầu.
Bộc khởi, như chữ “Bột khởi”, là nổi lên thình lình và mạnh mẽ.
Như: Phong trào yêu nước của sinh viên học sinh đã bộc khởi trở lại.
Sau khi tứ môn xuất du, Ngài trông thấy những cảnh đau khổ của chúng sanh như: Già, bịnh, chết làm cho lòng xuất gia tu hành bộc khởi.
(Giáo Lý).
僕 吏
Bộc: Đầy tớ, người giúp việc. Lại: Một chức quan nhỏ trong các nha, sở.
Bộc lại là một chức quan nhỏ trong nha, dùng để sai khiến như đầy tớ của quan.
Danh lợi ru hồn quên thổ vỏ,
Thẹn loài bộc lại mộ đai cân.
(Đạo Sử).
Bởi phường bộc lại thân đầy đủ,
Bởi đám nô dân phận khát khao.
(Thơ Tiếp Đạo).
Lương bổng hẹp hòi thân bộc lại,
Thuế sưu oằn oại phận tôi đòi.
(Mỹ Ngọc Thi Phổ).
暴 路
Bộc: Tỏ bày, giãi bày. Lộ: Phô bày ra.
Bộc lộ là làm cho lộ rõ, hiện rõ ra. Như: Thi hài bộc lộ, bộc lộ vết thương.
Bộc lộ là nói ra cho biết rõ điều sâu kín riêng. Như: Bộc lộ tâm sự, bộc lộ tình cảm.
Những lời cảm khái của chức sắc trong các cơ quan Ðạo vừa mới bày tỏ, chứa đầy sự thương tiếc, bộc lộ xiết bao nỗi tri ân nồng hậu...
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
Bộc: Tỏ bày, giãi bày.
Bộc tính là tính bộc trực, tức có tính nghĩ sao nói vậy một cách thẳng thắn.
Như: Người dân quê rất hiền lành, hầu hết họ là người bộc tính.
Người lối xóm lèo nhèo bộc tính,
Kẻ thân quen bịn rịn lo toan.
(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).
Bôi là chùi, lau, xoá. Như: Bôi tên, bôi chữ, bôi sổ.
Trong Đạo Sử của bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu, Thánh giáo Thầy có câu: Nhiều đứa đã bị Thái Bạch dĩ sổ bôi tên nơi chốn Thiên Thơ mà Thầy không phương chi giải cứu cho đặng; phải chi Thầy không sợ mất phép công bình thưởng phạt thiêng liêng dầu cho chúng nó phải chết đi nữa Thầy cũng mừng thầm, song chẳng đặng vậy, con coi cái bịnh con đó, nó ra giá quý báu cho con dường nào.
Cượng lý tu hành cho thoát tục,
Tiền vay nợ hỏi, sổ ai bôi.
(Lý Giáo Tông Giáng).
Bôi: Dùng một chất gì thoa lên một chỗ nào cho dính vào. Dơ: Nhơ, bẩn, nhớp, không sạch.
Bôi dơ là làm cho nhơ bẩn, xấu xa.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Cái phong hoá tốt đẹp đó đã bị bôi dơ, bị chà đạp: nào tình phụ tử, nào nghĩa phu thê, tình huynh đệ, mỗi mỗi đều mất hẳn tính cách thiêng liêng của nó.
Phong hoá tốt đẹp bị bôi dơ, hỏi vậy chúng ta ngày nay đây, ai dẫn đạo tinh thần mà đã biết như vậy thì nên bỏ hay là phải cố thủ?
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
Bôi: Chùi, lau xoá. Xoá: Gạch bỏ, bôi.
Bôi xoá là xoá bỏ hết, không để lại dấu tích.
Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông có dạy: Lão cũng hết lòng chiều theo tánh từ bi của Ðức Thượng Ðế, bằng chẳng thì Lão xuống tay bôi xoá hết trường công quả Ðại Ðạo, thì chúng sanh hết trông mong, mà kẻ chác tội lỗi cũng khó bề lấy sức phàm phu để gây nên rối rắm nữa.
Dầu Thầy có khoan dung cách mấy đi nữa, Thầy cũng không thể bôi xoá được những tội lỗi của các con đã làm từ lúc tạo thành nhơn loại.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
1.- Bối 貝 là lá cây bối đa, nói tắt là lá bối.
Ngày xưa ở bên xứ Ấn Độ khi chưa có giấy viết, kinh điển của Phật giáo được ghi chép trên lá bối.
Do vậy, lá bối được dùng để chỉ kinh sách, ngoài ra còn gọi là “Bối kinh”, “Bối văn” hay “Bối diệp”.
Nắng giọi tờ mờ kinh Lá bối,
Mưa sa ướt át cốt Thần tiên.
(Thơ Chơn Tâm).
2.- Bối 輩 là từng lũ, từng bọn, từng lớp người.
Như: Hậu bối, ông ấy là vị tiền bối giàu kinh nghiệm của chúng tôi trong ngành y dược.
Sản Tất Viên, Phương Sóc chi bối,
Đơn tích vi mang.
(Kinh Cúng Tứ Thời).
1.- Bồi là đất cát, bùn lắng đọng lại và nâng cao thêm lòng sông, lòng hồ hoặc làm rộng thêm bờ sông bờ hồ.
Như: Đất bồi, khúc sông bên lở bên bồi.
Ca dao ta có câu: Khúc sông khi lở khi bồi, Làm người có nhục thì rồi có vinh.
Coi như có lở thì bồi,
Cho đầy đủ lại phục hồi cựu nguyên.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
Biển ái kia bờ lở khó bồi,
Non thề nọ đảnh trôi khôn lấp.
(Phương Tu Đại Đạo).
2.- Bồi 培 là vun bón, bù thêm vào. Như: Bồi bổ, bồi dưỡng, bồi đắp.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Sanh đứng làm người, trót đã mang vào mình một vai tuồng đặc biệt, đã chẳng lo bước hành trình cho xong mà đắp bồi nợ mảnh hình hài, ngọn rau tấc đất, lại chác lắm điều phiền não ưu sầu, lấy Thánh đức gọi là chơi, mượn hành tàng vô nghĩa mà làm cho vừa lòng ái mộ bất lương.
Bền lòng thiện niệm bồi căn trước,
Trễ bước thuyền e bị ngược dòng.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Theo làm âm chất may bồi đắp,
Thì sẽ trở về chỗ vị xưa.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
3.- Bồi 賠 là đền trả lại, hoặc bù lại những cái đã mất mát, hư hỏng.
Như: Bồi thường, đền bồi ơn cha mẹ.
Trong Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Vì cái tình của Chí Tôn đối với dân tộc Việt Nam nên tôi thí thân phải chết mới đền bồi xứng đáng.
Phải nhớ hiếu đút mồi loài ô thước,
Đặng đền bồi cho được nghĩa cù lao.
(Phương Tu Đại Đạo).
培 補
Bồi: Lấy đất vun cây, bổ dưỡng. Bổ: Vá, bù vào.
Bồi bổ là vun thêm vào, vá vào chỗ thiếu, tức là làm cho nhiều thêm hoặc mạnh thêm.
Giải thích về lòng bác ái, Đức Quyền Giáo Tông có câu: Ăn thịt một con sanh vật là lấy huyết nhục nó để bồi bổ cho huyết nhục mình tức là quý trọng sanh mạng mình mà không quý trọng sanh mạng nó vậy.
Chúng tôi đã có dịp để lời khuyên nhủ không biết bao nhiêu lần, thấy sơ sót muốn bồi bổ...
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
培 功 立 德
Bồi công: Vun bồi những việc công quả. Lập đức: Tạo lập phước đức.
Bồi công lập đức là tạo lập công quả và vun bồi phước đức.
Trong Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Trước thềm Tân Xuân Tân Hợi và nhơn buổi cúng lễ Chung niên hôm nay tôi có đôi lời nhắc nhở bạn đạo trong việc bồi công lập đức, với ước nguyện mỗi vị nên lưu ý xét mình lo trau giồi đạo hạnh được ngày càng cao siêu thoát tục, để làm những bậc Thánh nhân trong hàng Thánh thể của Ðức Chí Tôn tại thế.
Xem: Lập công bồi đức.
Trả nghiệt đền oan ngăn Địa ngục,
Bồi công lập đức mở Thiên môn.
(Thơ Huệ Phong).
An phận bồi công, ơn Phật giúp,
Thủ thường lập đức, phước Trời ban.
(Thơ Thiên Vân).
Bồi: Thêm vào. Đắp: Vun đất lên.
Bồi đắp là đắp thêm cho dày hơn, vững hơn.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Từ mấy chục năm qua, đại nghiệp của Ðức Chí Tôn tại thế vẫn được bồi đắp lần hồi do nơi lòng trung thành và chí hy sinh của toàn Ðạo, tức là của Chức sắc và Thiện tín.
Bốn ngàn năm quốc gia đã lập,
Cõi Nam Châu bồi đắp giang sơn.
(Kinh Thế Đạo).
Rưới chan tịnh thuỷ an lê thứ,
Bồi đắp sơn hà thuận nghĩa nhân.
(Bát Nương Giáng Bút).
Xưa lối nghiêng nghèo đã trải qua,
Ghe phen bồi đắp vững san hà.
(Mỹ Ngọc Thi Phổ).
徘 徊
Bồi hồi là bồn chồn, băn khoăn, tức có những cảm xúc, hay ý nghĩ trở đi trở lại làm xao xuyến không yên.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có đoạn: Nhớ đến cảnh đau buồn của Ðạo trong những giai đoạn đen tối mấy năm qua, Hội Thánh không khỏi bồi hồi cảm xúc khi chứng nhận sự an ủi do nơi Chức sắc Khâm Châu, Ðầu Tộc, Ðầu Phận và Ðạo hữu nơi tứ phương thành tâm đem đến.
Mùi trần khi đã xa khơi,
Say sưa bầu khí bồi hồi chung phong.
(Kinh Tận Độ).
Còn cha con tỷ như côi,
Chít chiu trẻ khó, bồi hồi mẹ đơn.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Bồi hồi ngước mặt trông người hỏi,
Dịu ngọt khuyên mình có tiếng kêu.
(Thiên Thai Kiến Diện).
陪 酒
Bồi: Theo một bên để giúp đỡ. Tửu: Rượu.
Bồi tửu là theo hầu một bên để rót rượu.
Theo nghi lễ Hội Yến Diêu Trì Cung tại Báo Ân Từ, Toà Thánh Tây Ninh, các chức sắc Hiệp Thiên Đài là người đứng ra bồi tửu dâng lên Đức Phật Mẫu, Cửu Vị Tiên Nương, Đức Hộ Pháp, Đức Thượng Phẩm và Đức Thượng Sanh.
Bồi tửu lễ dâng chung Hội Yến,
Đê đầu tâm nguyện cảnh trần gian.
(Thơ Huệ Phong).
賠 償
Bồi: Thường tiền, đền trả lại. Thường: Đền trả.
Bồi thường là đền bù bằng tiền những thiệt hại về vật chất mà mình phải nhận lãnh trách nhiệm.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Nếu Thầy không thường món nợ ấy thì Hộ Pháp hứa sẽ tái kiếp luân hồi bồi thường cho đủ.
Hội Thánh có quyền buộc bồi thường những của cải của Đạo bị hao hớt và trộm cắp...
(Đạo Luật Mậu Dần).
Bổi là chỉ những vật như cành lá, cỏ rác lẫn lộn, thường dùng để đun.
Như: Đống bổi đã phơi khô, dùng bổi thế rơm để đốt lò nấu ăn.
Lửa trần đốt cháy biết bao,
Dại thay lửa cháy liệng nhầu bổi vô.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
背
Bội 背 là phản, lường, trái đạo. Như: Bội nghĩa vong ân, bội lời cam kết.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Vì cớ cho nên Ðức Chúa Jésus Christ thương nhơn loại một cách nồng nàn thâm thúy, Ngài đã ngó thấy Nhứt Kỳ Phổ Ðộ nhơn loại ký hoà ước với Chí Tôn mà đã bội ước, nên phạm Thiên Ðiều, nhơn quả nhơn loại gớm ghiết, do nhơn quả ấy mà tội tình nhơn loại lưu trữ đến ngày nay.
Hễ biết nghĩa thọ ơn chẳng bội,
Giúp cho người chớ vội khoe ra.
(Kinh Sám Hối).
Đáng làm môn đệ mới lưu truyền,
Những kẻ bội sư uổng kiếp duyên.
(Thơ Hộ Pháp).
背 恩
Bội: Quay lưng lại, phản lại, làm trái ngược lại với cái đã theo, đã hứa. Ân: Ơn nghĩa.
Bội ân là quay lưng lại với người làm ơn, ý nói phản bội lại kẻ mình thọ ơn.
Khi nào con vợ mến yêu,
Thì anh phòng lúc gặp điều bội ân.
(Thơ Hộ Pháp).
背 功
Bội: Quay lưng lại. Công: Công lao.
Bội công là phản bội lại công ơn của cha mẹ, hay công của người thi ơn.
Làm con đâu nở bội công,
Thành Tiên tác Phật trước xong đạo nhà.
(Thiêng Liêng Hằng Sống).
背 義
Bội: Xây lưng lại. Nghĩa: Việc theo đường lối phải.
Bội nghĩa ý chỉ người có cách cư xử, hành động trái với đạo nghĩa.
Thành ngữ có câu: “Vong ân bội nghĩa 背 義 忘 恩” bội nghĩa quên ơn.
Trong Thuyết Đạo, Đức Hộ Pháp có dạy: Trái lại, nếu ta vô tình lãnh đạm để cho họ phải chịu mai một thân thể lẫn tâm hồn, thì cái tội của ta vong ân bội nghĩa không cải chối.
Trọn niềm trung hiếu chẳng phai,
Mặc người bội nghĩa, mặc ai bạc tình.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
Bội nghĩa vong ân khinh đạo đức,
Tham danh trục lợi loạn luân thường.
(Võ Thành Lượng).
義 恩
Bội: Xây lưng lại. Nghĩa: Việc theo đường lối phải. Ân: Mối ơn.
Bội nghĩa ân tức là chỉ kẻ có tính phản lại người làm ân nghĩa cho mình.
Chớ oán chạ tham lam ngược ngạo,
Bội nghĩa ân trở tráo chước sâu.
(Kinh Sám Hối).
Bội phản: Như chữ “Phản bội”, là chống lại với người mà nghĩa vụ bắt buộc phải trung thành, bảo vệ. Sanh dưỡng: Sanh ra, nuôi dưỡng. Giáo hoá: Dạy dỗ.
Ân sinh dưỡng và công giáo hoá ở cõi thế gian là thiên chức của cha mẹ và ông thầy dạy học. Đó là công lao hữu hình tạo ra hình hài xác thịt, và khai hoá nhơn tâm.
Đối với đạo Cao Đài, công đức lớn lao hơn nữa là hồng ân của Đức Chí Tôn. Ngài đã tạo hoá ra Càn khôn Vũ Trụ và con người, tức là nắn đúc nên tấm thân phàm ở cõi thế gian và đào tạo cả khối tâm linh để được tiến hoá. Ngài chính là cha (Đại Từ Phụ), là thầy của vạn linh. Hơn nữa trong thời kỳ thứ ba, Ngài đến mở Đạo bằng huyền diệu cơ bút để dẫn dắt và giác ngộ người đời, Ngài thường xưng là Thầy, coi chúng sanh là trò để đem giáo lý mà dạy dỗ, hầu sau này các trò có thể trở về hội hiệp cùng Thầy.
Chính vì vậy, nơi hành lang Báo Ân Từ Đức Hộ Pháp cho vẽ một khuôn hình lấy tích là “Huyền sử Ông Thầy không tên” để nói về Đức Thượng Đế.
Bức tranh “Huyền sử Ông Thầy không tên” vẽ hình một người đàn ông (tượng trưng Thượng Đế) bị bắn một mũi tên vào bả vai rơi máu, để chỉ rằng: Ngài đã bị những kẻ phản bội gây đổ máu, mặc dù toàn cả nhân loại đều là con cái hay đồ đệ của Ngài. Nhưng Ngài vẫn thương yêu hết thảy, kể cả nhưng đứa dại khờ, hung dữ, Ngài chỉ ước mong sao một ngày nào đó, bọn chúng ăn năn, hối hận mà trở về cùng Ngài. Trong Thánh Ngôn, Ngài đã từng nói: Mỗi phen Thầy đau thảm khóc lóc các con, phải lén hạ trần, quyết bỏ ngôi Chí Tôn xuống lập Ðạo, lại bị các con bạc đãi, biếm nhẻ, xua đuổi, bắt buộc đến đỗi phải chịu cho các con giết chết!
Ân sanh dưỡng công vừa giáo hoá,
Từ thân phàm đến cả tâm linh.
Nên danh bội phản đức tin,
Mũi tên oan nghiệt tượng hình trên vai.
(Báo Ân Từ).
倍 分
Bội: Gấp lên nhiều lần. Phần: Một phần, tức một góc ở trong toàn thể.
Bội phần là gấp bội, tức là hơn rất nhiều, so với một mức nào đó.
Thuyết về “Lòng Nhân Ái”, Đức Thượng Sanh có câu: Nếu ai ai cũng quan niệm con người sanh ra nơi cõi thế đều cùng một nguồn gốc siêu hình mà ra và Ðấng Thượng Ðế là Cha Thiêng Liêng chung của nhơn loại thì sự xử kỷ tiếp vật của mỗi cá nhân chắc hẳn sẽ được tốt đẹp hơn hiện tại bội phần.
Bởi cớ, nơi Âm quang, Nữ hồn còn bị luyện tội nhiều hơn Nam phái bội phần.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
背 師
Bội: Phản lại, tức làm trái ngược với cái đã theo hay đã hứa. Sư: Thầy, người đã dạy dỗ.
Bội sư là phản lại thầy, tức chẳng những không biết ơn với thầy đã dạy dỗ mình, mà còn xử tệ hay phản lại với người ấy.
Đáng làm môn đệ mới lưu truyền,
Những kẻ bội sư uổng kiếp duyên.
(Thơ Hộ Pháp).
背 信
Bội: Quay lưng lại với nhau, trái ngược. Tín: Lòng tin, lòng tin tưởng.
Bội tín là phụ lại lòng tin cậy, lường gạt hoặc chiếm đoạt trái phép của người khác.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Ngài (Đức Chí Tôn) lấy trong một số ít của Thánh Đức Ngài tạo cho thành tướng một khối thương yêu vô tận, có một điều làm cho chúng ta ngạc nhiên hơn hết là từ thử đến giờ nhơn sanh đã hiểu quyền năng vô đối của quyền lực thương yêu nhưng họ chưa hiểu biết thống nhứt cả khối thương yêu ấy đặng làm phương cứu thế độ đời, hay là làm phương châm tạo hạnh phúc cho kiếp sanh của họ trái ngược lại họ chỉ thống hiệp tinh thần thù hận, oán ghét làm cho mặt địa cầu nầy biết mấy phen đẩm máu, nhơn loại tương tàn tương sát với nhau là vì họ bội tín của họ, biết thù hận hơn là thống hiệp thương yêu.
Trăm năm con cứ giữ tròn,
Nếu con bội tín, thân con tan tành.
(Diêu Trì Kim Mẫu).
佩 星
Bội: Đeo. Tinh: Ngôi sao.
Bội Tinh, như chữ “Huân chương”, là một thứ huy chương hình ngôi sao đeo trước ngục.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Họ nhốt trong khám mấy bữa vì nạn không có tiền đóng thuế thân cho bổn đạo, chúng bắt bỏ tù luôn Ngũ Đẳng Bội Tinh trong mình Ngài nữa, chừng ra rồi Ngài gỡ trả Ngũ Đẳng Bội Tinh lại, vì nó không có giá trị gì hết, nếu có giá trị thì không thị nhục dường ấy.
Xem: Bắc Đẩu Bội Tinh.
Tiếp tay Thượng Phẩm xong Chùa mới,
Phản đối cường quyền trả Bội Tinh.
(Thơ Huệ Phong).
奔
Bôn là chạy, đi nhanh. Lại có nghĩa là trai gái tư tình với nhau.
Như: Bôn đào, quân giặc đã bôn tẩu, bôn ba khắp chốn, dâm bôn.
Bỏ ngũ tàn quân người mất vía,
Bôn đào bại tướng kẻ hồn kinh.
(Thơ Thành Toại).
奔 波
Bôn: Chạy. Ba: Sóng.
Hình ảnh sóng nước chảy dập dồn dùng để chỉ người đi chỗ nầy đến chỗ nọ một cách khổ sở, vất vả.
Bôn ba còn có nghĩa là công việc không hở tay.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Người chức sắc bôn ba giữa chốn phồn hoa để chọn khách may duyên đưa vào cửa Đạo, nhưng vẫn giữ vẹn thân danh không vướng vào tục luỵ, sa ngã theo lượn sóng trần đó là đạt tới mức trí dũng của Thánh hiền thời xưa vậy.
Đã ngán bôn ba theo giả cuộc,
Âu đành mai một giữa thâm san.
(Thơ Thuần Đức).
Non nước còn mong cậy trí già,
Sức tài đâu kém dặm bôn ba.
(Thơ Thượng Tuy Thanh).
1.- Bôn chôn, như chữ “Bồn chồn”, là ở trạng thái nôn nao, thấp thỏm, lo lắng, không yên lòng.
Như: Anh ấy thường hay bôn chôn sợ sệt.
Kiếp trần bước những bôn chôn,
Bóng quang âm đã dập dồn tuổi cao.
(Nhàn Âm Đạo Trưởng).
2.- Bôn chôn còn có nghĩa là lăng xăng, rối rít, có những hành động cử chỉ vội vàng, hấp tấp.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có đoạn: Nếu đạp vào nẻo Ðạo mà còn bôn chôn tranh lướt theo thói thường tình thì dầu có bao nhiêu đạo hữu, bao nhiêu công quả đi nữa, mối Ðạo chẳng qua là một trường ngôn luận của thế gian đó thôi, chớ công quả đạo đức mong chi thấy sự kết quả xứng đáng đặng.
Kìa Quan viên Chức sắc bôn chôn,
cũng lũ dại học khôn,
Nọ binh lính Tổng làng chộn rộn,
cũng lũ ngu ăn hỗn.
(Ngụ Đời).
Còn giống còn nói còn có lúc,
Xa xuôi chí đó phải bôn chôn.
(Thơ Hộ Pháp).
奔 趨
Bôn: Chạy. Xu: Chạy mau.
Bôn xu là chạy mau, hay chạy nhảy.
Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Tưởng khi đều cho nhà chánh trị đại tài nào bôn xu trên con đường vật chất, mong mỏi cho thiên hạ hoà bình thì tỷ chẳng khác đem cung trăng thay mặt đất...
Hỏi thử ăn chay thì ngán miệng,
Ðeo theo thịt rượu với bôn xu.
(Đạo Sử).
Bốn là số đếm, một số đứng hàng thứ tư trong dải số tự nhiên, tức trước số năm, sau số ba.
Như: Một năm có bốn mùa, bốn biển năm hồ.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Thầy có câu: Các con mà có sức chống chỏi thì lũ ấy phải xa và Toà Thánh hôm nay đã thành một nơi đô hội, mà các con cũng đặng sum vầy một cửa, anh lớn em nhỏ một lòng một dạ, lấy Ðạo làm gốc mà lập nên một Tiểu Thiên Ðịa, há chẳng hơn giàu sang bốn biển sao?
Ðộng đình chạnh lúc tạm chia đường,
Bốn giọt nhìn nhau lối rẽ cương.
(Bát Nương Giáng Bút).
Bốn: Số tiếp theo số ba trong dãy số tự nhiên. Bể (biển): Vùng nước mặn rộng lớn trên bề mặt trái đất.
Bốn bể, như chữ “Bốn biển”, là tất cả mọi vùng trên thế giới, chỉ toàn thế giới.
Xem: Bốn biển.
Nay tôi đã thoát ly sự thế,
Khắp năm châu bốn bể là nhà.
(Thơ Hộ Pháp).
Bốn: Số tiếp theo số ba trong dãy số tự nhiên. Biển: Vùng nước mặn rộng lớn trên bề mặt trái đất.
Bốn biển, như chữ “Tứ hải 四 海”, là bốn vùng biển trên thế giới. Bốn biển dùng để chỉ khắp mọi nơi, khắp thế giới. Đồng nghĩa với Bốn biển năm hồ.
Xem: Bốn biển năm hồ.
Tâm ái nhơn sanh an bốn biển,
Tâm hoà thiên hạ trị muôn năm.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Anh hùng chí khí tùng chơn đạo,
Bốn biển xa gần phải hiến thân.
(Thượng Phẩm Giáng Bút).
Bốn biển: Tất cả mọi vùng trên thế giới. Năm hồ: Do chữ Ngũ hồ là năm cái hồ có tiếng ở Trung Quốc.
Bốn biển (bể) năm hồ, bởi chữ “Tứ hải ngũ hồ 四 海 五 湖”, đồng nghĩa với chữ “Năm châu bốn biển”, dùng để nói khắp mọi nơi, khắp thế giới.
Xem: Tứ hải ngũ hồ.
Duyên đằng thuận gió đã êm thuyền,
Bốn biển năm hồ đã đậu yên.
(Đạo Sử).
Trai bốn biển năm hồ là xứ,
Rõ dạy khôn cư xử cùng đời.
(Phương Tu Đại Đạo).
Bốn: Số đếm, một số đứng hàng thứ tư trong dải số tự nhiên, tức trước số năm, sau số ba.
Điều quy 條 規: Những điều quy định về phép tắc.
Bốn Điều Quy, bởi chữ “Tứ Đại Điều Quy 四 大 條 規”, là bốn phép tắc lớn được ghi trong Tân Luật, mà người Tín đồ đạo Cao Đài phải tuân giữ.
Xem: Tứ Đại Điều Quy.
Độ chúng hãy gìn năm giới cấm,
Giáo dân tua vẹn bốn điều quy.
(Thơ Tuấn Anh).
Bốn: Số đếm, một số đứng hàng thứ tư trong dải số tự nhiên, tức trước số năm, sau số ba. Đức: Đức tính tốt.
Bốn đức, bởi chữ “Tứ đức 四 德”, là bốn đức hạnh của người phụ nữ ngày xưa phải gìn giữ.
Bốn đức đó là công, dung, ngôn, hạnh.
Xem: Tứ đức.
Hành trang hạnh phúc khởi duyên hài,
Bốn đức, ba giềng gánh một vai.
(Thơ Hoàn Nguyên).
Phấn son bốn đức gìn gương rạng,
Huỳnh Phạm đôi nhà kết nghĩa thần.
(Thơ Chơn Tâm).
Bốn: Số tiếp theo số ba trong dãy số tự nhiên. Mùa: Thời tiết trong một năm gồm ba tháng.
Bốn mùa, do chữ “Tứ quý”, là chí bốn mùa tiết trong một năm. Đó là: Xuân, Hạ, Thu và Đông.
Bốn mùa hay thành ngữ “Bốn mùa tám tiết” dùng để chỉ một năm.
Khi nói về Đức Quan Thánh, Thuyết Đạo Thượng Sanh có đoạn: Ðến sau Ðức Ngài thường hiển Thánh nơi Ngọc Tuyền Sơn mà bảo hộ nhơn dân. Người trong làng cảm đức lập miếu trên núi mà thờ Ðức Ngài, bốn mùa hương khói không dứt.
Tám tiết chống Trời lòng chẳng mỏi,
Bốn mùa cản gió chí không nao.
(Quyền Giáo Tông).
Bốn mùa: Bốn mùa tiết trong một năm. Đó là: Xuân, Hạ, Thu và Đông. Tám tiết: Tám mùa tiết trong một năm, gồm: Xuân phân, thu phân, hạ chí, đông chí, lập xuân, lập hạ, lập thu và lập đông.
Bốn mùa tám tiết là mùa tiết trong một năm, ý chỉ thời gian một năm.
Như: Hoa nầy có bông suốt bốn mùa tám tiết.
Trời Ðất chuyển xây tạo thế trần,
Bốn mùa tám tiết cứ vần lân.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
Bốn mùa no dạ nhờ dưa muối,
Tám tiết che mình với vải bô.
(Thơ Thượng Sanh).
Hay “Bốn nghìn năm”.
Bốn ngàn năm, nhữ chữ “Bốn nghìn năm”, là chỉ khoảng thời gian kể từ ngày lập quốc của nước Việt Nam.
Theo Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim, nước Việt Nam về đời Hồng Bàng, gọi là Văn Lang 文 郎, lập quốc vào năm 2897 trước Tây lịch, trải đến ngày nay thì hơn 4000 năm dựng nước và thay đổi nhiều quốc hiệu, đến đời vua Gia long thống nhất được cả Nam Bắc (1802), lấy lẽ rằng Nam là An Nam 安 南, Việt là Việt Thường 越 裳, nên mới đặt quốc hiệu là Việt Nam.
Bốn ngàn năm quốc gia đã lập,
Cõi Nam Châu bồi đắp giang sơn.
(Kinh Thế Đạo).
Giang san bốn ngàn năm tổ nghiệp,
Văn hoá so cũng kịp tha bang.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Bốn: Số đếm, một số đứng hàng thứ tư trong dải số tự nhiên, tức trước số năm, sau số ba. Ngọc nữ: Theo truyện thần tiên, nơi Thượng giới các vị tiên trưởng thường có các vị tiểu đồng hầu hạ, gái thì được gọi là Ngọc nữ, trai thì được gọi là Kim đồng.
Bốn Ngọc nữ hay bốn Nữ nhạc (hay Tiên đồng nữ nhạc) là bốn vị thị nữ theo hầu Đức Phật Mẫu, đó là:
1.- Hứa Phi Yến.
2.- An Phát Trinh.
3.- Đổng Song Thành.
4.- Vương Tử Phá.
Tượng thờ nơi Chánh Điện Báo Ân Từ, là chân dung Đức Diêu Trì Kim Mẫu cùng với Cửu Vị Tiên Nương ngự trên chim Thanh loan bay đến Hoa Điện và bốn Ngọc nữ.
1.- Bốn Ngọc nữ:
Bốn Ngọc Nữ sau hầu Đức Mẹ,
Cảnh tôn thờ rạng vẻ uy linh.
(Quang Cảnh Toà Thánh).
2.- Bốn Nữ nhạc:
Bốn Nữ nhạc canh thâu chực sẵn,
Cửu Tiên Nương chơ đặng nhập triều.
(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).
Hay “Bốn phương”.
Bốn: Một số trong số đếm, trên ba dưới năm. Phang (phương): Hướng, phía.
Bốn phang, như chữ “Bốn phương”, là bốn hướng, bốn phía, gồm Đông, Tây, Nam, Bắc.
Xem: Bốn phương:
Rèn lòng giữ chặt tròn năm mối,
Phấn chí vẫy vùng khắp bốn phang.
(Thơ Thái Đến Thanh).
Bốn: Một số trong số đếm, trên ba dưới năm. Phương: Hướng, phía.
Bốn phương là bốn hướng, bốn phía, gồm Đông, Tây, Nam, Bắc.
Bốn phương dùng để chỉ tất cả các phương trời, hay tất cả mọi nơi.
Trong Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có đoạn: Vầng trăng đương soi sáng vũ trụ, bỗng nhiên một thoáng mây đen thoáng qua, tuy là làm cho lu mờ cảnh vật, nhưng đó chỉ là trong chốc lát. Một luồng thanh phong thổi tới, áng mây bị đẩy đi xa, ánh trăng cũng trở lại tỏ rạng khắp bốn phương trời.
Bờ dương chừ đặng phong trần rảnh,
Quảy gánh thơ đàn dạo bốn phương.
(Đạo Sử).
Giang san gấm vóc bề chơn vạc,
Đảnh tộ Việt Thường vững bốn phương.
(Thơ Thân Dân).
Bốn: Số đếm, một số đứng hàng thứ tư trong dải số tự nhiên, tức trước số năm, sau số ba. Vách: Bức làm bằng vật liệu, hay lá, tre, gỗ để che chắn hoặc ngăn cách trong nhà.
Bốn vách, bởi chữ “Từ đổ tường 四 堵 墻”, là bốn bức vách, dùng để ví với bốn món ăn chơi ở đời như là bốn bức tường vây chặt con người không thể thoát ra được.
Bốn vách của đời là sắc, tài, tửu, khí, mà người tu nếu hễ mang vào thì thôi có mong chi siêu rỗi đặng.
Sắc hễ gần rồi thì thần hồn hôn muội.
Tài hễ máng đến thì tâm chí lo ra.
Tửu hễ sai mê thì kim đơn hư hỏng.
Khí hễ còn vướng thì xá lợi tiêu tan.
Xem: Tức đổ tường.
Còn bốn vách của đời là sắc, tài, tửu, khí, mà người tu nếu hễ mang vào thì thôi có mong chi siêu rỗi nữa.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
Bồn 盆 là cái chậu, vật dùng để chứa nước hoặc để trồng cây cảnh.
Như: Bồn nước, dời bồn kiểng ra sân trước, Trang Tử vỗ bồn ca.
Sân ngô giao cánh loan vờn phượng,
Vườn hạnh chung bồn trúc tựa mai.
(Thơ Chơn Tâm).
Bồn chồn, như chữ “Bôn chôn”, là bối rối, nôn nóng trong lòng.
Bồn chồn còn có nghĩa ở trạng thái nôn nao, thấp thỏm, thường vì một việc gì chưa đến, chưa biết ra sao.
Như: Bồn chồn lo lắng, bồn chồn đợi phút giây gặp gỡ nhau.
Hồn mộng bồn chồn mơ cửa Đạo,
Đợi ngày xa lánh bụi phồn hoa.
(Thơ Thuần Đức).
1.- Bổn, còn đọc “Bản 本”, là cái gốc, thuộc về phần gốc, cội nguồn.
Như: Mộc bổn thuỷ nguyên (Cây cội nước nguồn), những kẻ vong bổn.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Chí Tôn đến mới nói đại đồng thế giới đã làm rồi, nhưng không thành, Chí Tôn đến làm cho thành, đem nhơn loại quy một bổn nên mở Ðạo Cao Ðài làm nguồn cội.
Thảo căn mộc bổn thạnh tương cầu,
Ngự hám công khanh nhứt thế ưu.
(Đạo Sử).
2.- Bổn, còn đọc “Bản”, là thuộc về phần mình.
Như: Người bổn quốc, dân bổn thôn, công việc nầy là bổn phận, bổn tánh nó gian tham.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Chúng tôi vẫn lưu tâm lo tìm phương chước đem lại cho đời sống của bổn Ðạo một sự an ủi thiết thực, cần yếu và chúng tôi tin chắc rằng trong sự cộng tác thành thật của lưỡng đài Hiệp Thiên Ðài và Cửu Trùng Ðài, chúng ta hy vọng một tương lai vui tươi tốt đẹp hơn.
Sương bay sáu tháng bởi người oan,
Bổn tánh phàm nhân ít hiểu nhàn.
(Đạo Sử).
3.- Bổn, cũng đọc “Bản 本”, là tờ, tập, cuốn.
Như: Một bổn truyện Tàu, bổn sao khai sanh, nộp bổn sao lưu lại bổn chính.
Xem: Bản.
Viết thành một bổn hiển Thiên Thơ,
Ðã trước muôn năm để tới giờ.
(Đạo Sử).
本 道
Bổn: Còn đọc “Bản”, là thuộc về phần mình. Đạo: Tôn giáo.
Bổn đạo là những người cùng một đạo với mình, tức những tín đồ của tôn giáo mình.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Hội Thánh đã từng nhắc cho bổn đạo ghi nhớ mấy lời nghiêm huấn này và mặc dầu ở trong hoàn cảnh bất túc, Hội Thánh chỉ nhờ nơi lòng trung hậu và sự hảo tâm của bổn đạo gần xa ra tay vùa giúp đở nâng.
Bổn đạo trong Họ phải tuân mạng lịnh của chức sắc làm đầu trong Họ.
(Tân Luật).
Hay “Bản lai diện mục”.
Bổn lai diện mục, như chữ “Bản lai diện mục 本 來 面 目”, là mặt mũi xưa nay, tức là bộ mặt thật xưa nay vốn có của con người. Đây là một ẩn dụ thường dùng trong Thiền tông để chỉ Đạo, Chân tánh hay Phật tánh của chúng sinh.
Câu hỏi “Gương mặt xưa nay của người là gì?” hoặc là “ Gương mặt của người trước khi cha mẹ sanh ra là gì?”, đó là điểm mấu chốt của một công án thường sử dụng trong phái Thiền tông.
Thấy được gương mặt xưa nay có nghĩa là “Kiến tánh”, thấy được tự tánh của mình, tự tánh mà mỗi chúng sanh đều sẵn có, chỉ hiển hiện khi thân tâm thanh tịnh. Cái bổn lai diện mục nầy vốn hư không nên vô cùng linh hoạt và huyền diệu, châu lưu biến hoá khắp cả pháp giới. Cái thể của nó bất sanh bất diệt, trải qua vô lượng kiếp mà không hư hoại.
Theo Giáo lý Cao Đài, cái bổn lai diện mục ấy chính là Thiên tánh, hay Tiểu Linh quang chiết ra từ khối Đại Linh quang của Thượng Đế, nên có đầy đủ các đặc tính mầu nhiệm của Thượng Đế.
Đoạt thấu chỗ bổn lai diện mục,
Luyện cho thành cửu khúc minh châu.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
Hay “Bản nguyên”.
Bổn (Bản): Gốc. Nguyên: Nguồn.
1.- Bổn nguyên, như chữ “Bản nguyên 本 源”, là cái gốc, cái căn cội của sự việc.
Thánh Giáo Đức Chí Tôn dạy: Nó phải có bổn nguyên chí Thánh, chí Tiên, chí Phật, mới xuất Thánh, Tiên, Phật đặng.
Đạo cao nhờ luật pháp chơn truyền,
Quy củ chuẩn thằng thị bổn nguyên.
(Thơ Thông Quang).
Nhớ câu hiếu thảo bền sơn hải,
Xét chữ cù lao cảm bổn nguyên.
(Thơ Thái Phong).
2.- Bổn nguyên còn dùng để chỉ nguồn gốc, lai lịch của con người.
Như: Tu hành là mong muốn khi quy vị chơn linh được hiếp nhứt với bổn nguyên.
Tấn hoá mãi trên đường Ðạo đức,
Bỏ xác về hiệp nhứt bổn nguyên.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
Hay “Bản phận”.
Bổn (Bản): Gốc đầu của mọi việc. Phận: Phần riêng thuộc về nơi nào hoặc người nào.
Bổn phận, hay “Bản phận 本 分”, là chức phận của mình, tức là phần việc mà mình phải lo liệu, phải làm, theo đạo lý thông thường.
Thánh giáo Thầy có dạy: Vậy thì các con nên hiểu lấy mà làm bổn phận. Nếu Thầy quá thương dìu dẫn cho các con khỏi chốn khó khăn ấy, thì các con phải đem mình trở xuống mấy lần như vầy nữa mới được công quả hoàn toàn, hầu trở về ngôi vị đặng.
Nhân duyên cho trẻ lo hoàn tất,
Bổn phận làm cha cũng vẹn toàn.
(Thơ Thuần Đức).
Dưỡng tánh tu tâm an bổn phận,
Non Tiên động Thánh bước ta bà.
(Thơ Thái Đến Thanh).
Bổn phận: Chức phận của mình, tức là phần việc mà mình phải lo liệu, phải làm, theo đạo lý thông thường. Làm dân: Làm một người công dân.
Bổn phận làm dân có nghĩa là làm một công dân phải chịu dưới quyền của vua và luật pháp của nước đó. Nhưng đối với bậc Thần, Tiên tu trên núi đã đắc quả rồi có phải là người dân trong nước không? Có chịu dưới quyền của nhà vua không?
Câu chuyện sau cho ta biết về điều đó:
Hán Văn Đế là người rất mộ đạo, nghe tiếng Quảng Thành Tử tu trên núi đã đắc quả thành Tiên, bèn sai sứ đến rước về triều kiến.
Quảng Thành Tử nói với sứ giả rằng: Nếu trọng người, lẽ nào vua không đích thân tới rước, mà lại sai sứ tới rước?
Sứ giả về tâu lại nhà vua. Sau Hán Văn Đế gặp lại Quảng Thành Tử, nhà vua mới nói: Ở trong nước là bề tôi của vua, Thầy tuy có đạo mặc dầu, song cũng là dân của trẫm, sao không chịu hạ mình xuống một chút mà lại kiêu như vậy? Hay trẫm không làm được hoạ phước cho Thầy chăng?
Quảng Thành Tử nghe vua nói như vậy, liền cất mình bay lên cao một trăm thước, ngồi trên thinh không ngó xuống nói với Văn Đế rằng: Nay, trên chẳng tới trời, dưới chẳng tới đất, Bệ hạ làm hoạ phước cho ta sao đặng.
Vua Hán Văn Đế biết lỗi, liền xuống xe làm lễ xin thọ giáo.
Bổn phận làm Dân là một phần tử trong nước, người Công dân phải giữ tròn bổn phận của mình.
(Giáo Lý).
Hay “Bản tính”.
Bổn (bản): Vốn, gốc. Tánh (tính): Bản nhiên của trời phú cho.
Bổn tánh, như chữ “Bản tính 本 性”, là tính chất hay tính tình vốn có.
Như: Tham ăn là bổn tánh của loài vật, ghen tuông là bổn tánh của đàn bà.
Bởi chưng chẳng biết trau giồi,
Ðặng cho bổn tánh phục hồi cội căn.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
Hay “Bản tâm Thầy ngự”.
Bổn (bản) tâm Thầy ngự ý nói tâm là nơi ngự của Đức Chí Tôn.
Thật vậy, tâm là một điểm Thiên lương do Đức Chí Tôn ban cho con người, nên nơi đó Chí Tôn thường ngự. Vì vậy, trong Thi Văn Dạy Đạo Ngài có dạy: “Nơi lòng Thầy ngự, động Thầy hay” hoặc “Bần sang trối mặc tâm là quý, Tâm ấy toà sen của Lão ngồi”.
Như vậy, chúng ta có thể khẳng định rằng bản tâm là nơi ngự của Đức Chí Tôn và chư Phật, Tiên, Thánh, Thần.
Xem: Nơi lòng Tầy ngự.
Bổn tâm Thầy ngự người trau hạnh,
Nguyên lý đạo khai nước lắng phèn.
(Thơ Huệ Phong).
Bộn là nhiều. Như: Bộn tiền, làm bộn thức ăn, ngoài ruộng bộn chuyện cần làm.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Nòi giống Việt Nam cũng có bộn người tạo thành một nhóm tự xưng là trí thức tinh thần có lực lượng mạnh mẽ mong giết hại đồng chủng của mình mà độc tài lập vị.
Tính lời lớn mà ra lỗ vốn,
Nhắm đoàn buôn còn bộn bạn hàng.
(Phương Tu Đại Đạo).
Bộn: Nhiều, ngổn ngang.
Bộn bàng, như chữ “Bộn bề”, là nhiều và có phần ngổn ngang làm không xuể.
Như: Mấy bữa nay mắc học thi, công việc nhà bộn bàng hết sức.
Anh lắm lúc bộn bàng thế sự,
Em đôi khi nhấp nhứ khuyên lơn.
(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).
Bộn: Nhiều, ngổn ngang. Bề: Nói về hình trạng không gọn ghẽ, như: Bề bộn.
Bộn bề là nhiều lắm và có vẻ ngổn ngang.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Năm cũ sắp tàn, thời gian trôi qua thấm thoát, tuổi chẳng chờ người mà phận sự còn bộn bề chưa biết đâu là cứu cánh.
Tầm đường giác, tránh đường mê,
Phượng thờ chi lắm bộn bề tưởng tin.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
Chay lạt nguyện cầu siêu thoát được,
Bộn bề sanh kế thảnh thơi đâu?
(Thơ Vạn Năng)
1.- Bông là nụ hoa, hoặc chỉ cơ quan sinh sản hữu tính của cây hạt kín, thường có màu sắc và hương thơm. Như: Bông lau, bông tàn nhuỵ rửa, sinh bông trổ trái.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Tà mị cũng như một hột lúa bị hẩm mà thúi thì thế nào mọc đặng mà sanh bông trổ trái.
Cao mấy từng mây lố mặt Trời,
Ðài sen vui nở nhánh bông tươi.
(Đạo Sử).
Bông dầu đẹp, khá gìn hương,
Quý chi liễu ngõ hoa tường trao duyên.
(Nữ Trung Tùng Phận).
2.- Bông là loại cây thân cỏ, lá hình chân vịt, hoa màu vàng, lông xơ trắng bám quanh hạt, được dùng để kéo thành sợi vải.
Như: Mền bông, áo bông, nệm bông. chăn bông.
Chăn bông ấp ủ ai màn gấm,
Gối đất co ro kẻ chiến trường.
(Thơ Huệ Giác).
3.- Bông là loại bông gồm những sợi trắng rất mỏng và mịn, được lấy ra từ trái khô của cây gòn, cây gạo dùng để làm nệm, gối, hoặc dùng để chỉ vật nhẹ.
Như: Nệm bông, gối độn bông, nhẹ như bông.
Khuôn thuyền Bát Nhã chẳng hề chìm,
Nổi quá như bông, nặng quá kim.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
4.- Bông là hoa văn, tức dùng hình bông hoa để trang trí trên một số sản phẩm.
Như: Đôi chiếu bông (tức chiếu có vẻ hoa văn), giấy bông, khăn thêu bông.
Dạy về Đại phục Đầu Sư Nữ phái, Thánh giáo Thầy có câu: Ðầu Sư Nữ phái mặc một Ðạo phục y như Ðạo phục Ðầu Sư Nam phái, phải đội một Ni Kim Cô như các vãi chùa, toàn hàng trắng, chín dải, áo có thêu bông sen.
Tuyến đẹp vẻ thêu bông nổi mặt,
Đoạt kinh luân nặng thắt túi thơ.
(Tam Nương Giáng Bút).
Bông: Những sợi trắng mỏng và mịn dùng trong y tế. Gòn: Cây to, vỏ màu xanh tươi, lá kép hình chân vịt, quả khô chứa nhiều sợi bông.
Bông gòn là bông lấy từ quả khô của cây gòn, cây gạo, thường dùng để dồn gối, nệm.
Bông gòn còn là vật dùng trong y tế để lót hoặc băng bó vết thương.
Tắm và lau thì dụng bông gòn,
Trẻ mới đẻ da non đừng động mạnh.
(Phương Tu Đại Đạo).
1.- Bồng là ôm, bế, ẵm trên tay. Như: Bồng em, bồng trẻ dắt già, tay bồng tay mang.
Thánh giáo Thầy có đoạn: Thầy vì công lý mà khai đạo cho các con, cũng là một phúc hạnh lớn cho các con. Nếu Thầy còn đưa tay bồng ẵm thì các con chẳng còn để ý chịu nhọc vì Ðạo.
Nâng niu lúc ẵm khi bồng,
Phụ thân thế phận cho chồng dạy khuyên.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Cơn sản sanh bếp lửa nồi xông,
Nuôi con dại, vợ bồng, chồng dắt.
(Phương Tu Đại Đạo).
2.- Bồng 蓬 là tên một ngọn núi, nơi có Tiên ở, thường gọi là “Bồng Lai”.
Như: Nước Nhược non Bồng, Bồng đảo, bồng doanh.
Thương ai nên giữ lấy thân,
Hồi về Tiên cảnh non Bồng ngao du.
(Ngũ Nương Giáng Bút).
3.- Bồng 蓬 là tên một thứ cỏ dùng làm cây tên, do tích “Tang bồng” là cung bằng cây dâu, tên bằng cỏ bồng, dùng để chỉ người có chí vẫy vùng.
Như: Tang hồ bồng thỉ.
Đại quân tử tang bồng gánh nợ,
Nhờ vợ hiền mới đỡ đôi vai.
(Phương Tu Đại Đạo).
Bồng: Bế. Ẵm: Dùng tay bợ vào thân mình.
Bồng ẵm, cùng nghĩa với chữ “Bồng bế”, tức dùng hai tay đỡ và giữ lấy, thường là trẻ nhỏ, cho sát vào người khi di chuyển.
Thánh giáo Thầy trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có dạy: Thầy đã nói cho các con hay trước rằng, nếu các con không tự lập ở cõi thế nầy, là cái đời tạm của các con, thì Thầy cũng không bồng ẵm các con mà đỡ lên cho đặng.
Già yếu lưng khó nỗi đứng ngồi,
Dâu mạnh mẽ rán hơi bồng ẵm.
(Phương Tu Đại Đạo).
Từ sáu tháng khá thường bồng ẵm,
Mơi bửng tưng, chiều sẩm mặt trời.
(Phương Tu Đại Đạo).
Bồng: Ôm, bế trên tay. Bế: Ẵm.
Bồng bế là dùng hai tay đỡ và ôm sát vào lòng khi di chuyển đi.Như: Bồng bế trên tay.
Ca dao Việt Nam có câu: Thiếp toan bồng bế con sang, Thấy chàng bạc bẽo thiếp mang con về.
Chạnh nỗi thế tao tân vì thế,
Giữa lưới trần bồng bế cái sầu,
(Đại Thừa Chơn Giáo).
蓬 勃
Bồng bột là hăng hái một cách nông nổi, tức có khí thế mạnh mẽ, sôi nổi, nhưng thiếu chính chắn, không được lâu bền. Như: Tính khí bồng bột.
Trong bài Tu Thân của Đức Thượng Sanh đăng trên báo Duy Tâm số ba ngày 18 tháng 5 năm 1948 có câu: Giữa lúc thế giới cạnh tranh, bốn phương loạn lạc, mạnh vì thế, khôn vì tiền, đang lúc quốc dân bồng bột giành giựt vì sanh kế, mà đem vấn đề Tu Thân ra bàn bạc thiết tưởng cũng một sự rất hạp thời.
Nam Việt lẫy lừng xe pháo ngựa,
Tần bang bồng bột tướng binh voi.
(Quyền Giáo Tông Giáng).
Bồng con: Ẵm con. Trông chồng: Mong mỏi chồng.
Bồng con trông chồng, do tích “Hòn Vọng Phu”, là người vợ thương chồng, bồng con thơ lên núi trông, rồi hoá thành đá, gọi là đá “vọng phu”.
Tương truyền ngày xưa có hai anh em ruột với nhau, lúc nhỏ khi giỡn chơi, người anh vô tình chém nhằm đầu người em gái một nhát dao, sợ quá trốn đi biệt dạng tông tích.
Về sau, cả hai lớn lên gặp gỡ lại mà không biết, nên lầm kết duyên vợ chồng với nhau. Một hôm, người chồng chải tóc cho vợ, phát hiện vợ mình có vết thẹo nơi đầu, hỏi rõ căn nguyên, mới biết vợ là em ruột mình. Người chồng cảm thấy tội lỗi vô cùng, bỏ đi biệt tích.
Người vợ không biết gì, cứ bồng con lên đỉnh núi trông chồng. Lâu ngày hai mẹ con đều hoá đá. Người đời bèn gọi tượng đá đó là hòn Vọng phu. Hiện ở Bình Định, Thanh Hoá đều có núi Vọng phu.
Thương cho kẻ ôm thuyền bể ái,
Bồng con thơ ngần ngại trông chồng.
Tấm trinh đối mặt non sông,
Đành đem thân đá hẹn cùng tuyết sương.
(Thất Nương Giáng Bút).
Hay “Bồng Doanh”.
Bồng Dinh, như chữ “Bồng Doanh 蓬 瀛”, là Bồng Lai và Doanh Châu, chỉ cảnh Tiên.
Xem: Bồng dinh:
Ơn nhờ hồng phước Chí Linh,
Lôi Âm tự toại, Bồng Dinh hưởng nhàn.
(Kinh Tận Độ).
蓬 瀛
Bồng Doanh, do hai từ Bồng Lai 蓬 萊 và Doanh Châu 瀛 洲, là hai hòn núi ở biển Bột Hải ghép lại với nhau, để chỉ cõi Tiên.
Ở trong bể Bột Hải tục truyền có ba núi tên là Bồng lai, Phương trượng và Doanh châu, người tiên và thuốc tiên đều ở ba núi ấy, loài vật toàn sắc trắng, cung điện toàn làm bằng châu báu bạc vàng.
Bồng doanh đã được an ngôi vị,
Âm tuế vì chưng sẵn miếng vườn.
(Thơ Thành Toại).
蓬 島
Bồng Đảo là một hòn đảo nơi biển Bột Hải, trên có núi Bồng Lai hay Bồng Sơn, có các vị tiên ở.
Tương truyền Biển Bột Hải có nước rất yếu ớt, không đỡ nổi một hột cải, nên được gọi là Nhược thuỷ. Biển này có ba hòn đảo: Bồng Đảo, Doanh Đảo (Doanh Châu), Phương Đảo (Phương Châu).
Bồng Đảo chỉ cõi Tiên.
Thánh giáo Chí Tôn có câu: Nhưng mà buộc phải lập Chánh thể, có lớn nhỏ đặng dễ thế cho các con dìu dắt lẫn nhau, anh trước em sau mà đến nơi Bồng đảo.
Xem: Bồng Lai.
Cõi Thanh Thiên lên miền Bồng Đảo,
Động Thiên Thai bảy Lão đón đường.
(Kinh Tận Độ).
Gìn lòng tu niệm cho bền chí,
Bồng đảo ngày nay đặng hiệp vầy.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Gìn lòng tu niệm cho bền chí,
Bồng đảo ngày nay đặng hiệp vầy.
(Đạo Sử).
蓬 萊
Bồng Lai, còn gọi là Bồng Hồ, là tên một ngọn núi có Tiên ở, chỉ cảnh Tiên.
Theo Sơn Hải Kinh, Bồng Lai, Phương Trượng, và Doanh Châu là ba hòn núi nằm giữa biển Bột Hải. Ở đây cung khuyết toàn bằng vàng bạc, các vị Tiên luyện thuốc trường sinh đều ở cả ba ngọn núi nầy.
Bồng Lai Cực Lạc chỉ chừng,
Đẩy đưa xác tục dựa gần cõi linh.
(Kinh Thế Đạo).
Chẳng kể công khanh bỏ ấn quan,
Bồng Lai vui Ðạo hưởng an nhàn.
(Đạo Sử).
Phận làm con thảo há nài,
Biết thương Tiên, Phật, Bồng Lai mà tìm.
(Đạo Sử).
蓬 山
Bồng: Núi Bồng Lai, nơi cõi Tiên. Sơn: Núi.
Bồng sơn là non Bồng, tức núi Bồng Lai. Chỉ Tiên Cảnh, hay cõi Tiên.
Bồng Sơn đồng nghĩa với chữ “Bồng Lai 蓬 萊” hoặc “Bồng Đảo 蓬 島”, chỉ cõi Tiên
Xem: Bồng Lai.
Sắm nghiệp trần gian còn phải khó,
Lựa là nghi trưởng tại Bồng Sơn.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Bổng: Âm thanh có tiếng cao và trong. Trầm: Tiếng hay giọng thấp và ấm.
Bổng trầm, như chữ “Trầm bổng”, là chỉ âm thanh khi cao lúc thấp (trầm bổng), nghe rất êm tai.
Từ đây phím ngọc năm cung dứt,
Đàn có ai nghe giọng bổng trầm.
(Thơ Chơn Tâm).
Bơ: Ngớ ngẩn, quê mùa, chẳng biết gì cả. Ngơ: Khờ, không để ý đến.
Bơ ngơ là trơ trọi, bơ vơ, tức có cảm giác lẻ loi, cô độc. Như: Anh ấy bơ ngơ nơi xứ lạ quê người.
Bơ ngơ là ngơ ngác, bỡ ngỡ, tức có tâm trạng cảm thấy cái gì cũng lạ, không hiểu biết gì cả.
Anh chị chê mình đứa khật khờ,
Vì mình thiệt bơ ngơ không trí thức.
(Phương Tu Đại Đạo).
Bơ: Có vẻ không mảy may để ý đến, không có mảy may cảm xúc. Phờ: Ở trạng thái rất mệt mỏi, đờ đẫn cả người.
Bơ phờ có nghĩa là rối.
Bơ phờ còn dùng để chỉ bên ngoài lộ trạng thái rất mệt mỏi trên gương mặt.
Như: Thức đêm nhiều mặt mũi bơ phờ.
Cơn bịnh nặng bao nhiêu thuốc đắng,
Vóc hình teo dai dẳng bơ phờ.
(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).
Cố tâm chèo chống đều an toại,
Ngỏ ý bơ phờ kém tự do.
(Thơ Võ Thành Lượng).
Bơ: Ngớ ngẩn, chẳng biết gì cả. Thờ: Thờ ơ, không có sự quan tâm, chú ý.
Bơ thờ là không quan tâm, để ý tới công việc nhiều.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thầy có dạy: Thầy chưa hề bắt tội con, song chư Thần, Thánh, Tiên, Phật đã hiểu rõ rằng: Thầy trao nơi tay con một quyền hành thưởng phạt, cũng như Thầy trao cho Tắc một cây cân công bình thiêng liêng nơi cõi tục nầy; mà cả hai, một đứa bạc nhược, một đứa bơ thờ.
Nửa chiếu không rồi thân phận tục,
Ðường Tiên ngần ngại bước bơ thờ.
(Đạo Sử).
Ả Chức bơ thờ quên nhiệm vụ,
Chàng Ngưu lười biếng lộ hành tung.
(Thơ Thuần Đức).
Bơ vơ là trơ trọi, không có nơi nương tựa. Như: Một thân bơ vơ nơi xứ lạ.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Đức Tiêu Sơn Đạo Sĩ có câu: Lao nhao, lố nhố, cũng thì một con đường, cũng thì về một chỗ, mà kẻ đi xe ép người đi bộ, người thông hiểu nẻo lộ gạt gẫm đứa khạo khờ, kẻ côi thế chịu bơ vơ, người quá ham đi mà sa hố, rốt lại cũng quạnh quẽ con đường. Mấy ai hiểu thấu?
Bầy gà mất mẹ kiếm bơ vơ,
Yếu đuối biết ai để cậy nhờ.
(Đạo Sử).
E ra nhiều thiếp nhiều hầu,
Rồi tham bẻ lựu, bỏ đào bơ vơ.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Không cha mẹ như người đi cảnh lạ.
Thân cô đơn lạc ngả bơ vơ.
(Phương Tu Đại Đạo).
Bớ là tiếng dùng để gọi chung chung người ngang hàng hoặc người dưới ở đàng xa.
Như: Bớ lái đò, bớ các em học sinh.
Ca dao có câu: Bớ chiếc ghe sau chèo mau anh đợi, Kẻo giông khói đèn bờ bụi tối tăm.
Còn đời chìm nổi lắm gay go,
Tu đặng đâu tua hỡi bớ trò.
(Đạo Sử).
Lang thang lưới thưới bắt đau lòng,
Kêu Ðấng Phước Thần hỡi bớ Ông!
(Thiên Thai Kiến Diện).
Bớ bớ ai ôi, có phải điên,
Đạo không đoái đến cứ bu tiền.
(Cao Liên Tử).
Bờ là dải đất đắp cao lên làm giới hạn một vùng nước, hoặc chỗ phân giới hai bên.
Như: Bờ kinh, bờ ruộng, bờ tường, bờ hè, bờ rào, bờ biển, tuông bờ lướt bụi.
Thánh giáo Thầy trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có dạy: Thầy khuyên các con theo sau Thầy mà đến phẩm vị mình thì hay hơn tuông bờ lướt bụi, đi quanh kiếm quất, nghe à.
Nước dương rưới sạch trần ai cũ,
Bờ giác nương theo nguyệt rọi làu.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Ðất vò nên lọn xây thành lở,
Nước dập tuông bờ lở giậu dâu.
(Lục Nương Giáng Bút).
Bờ: Dải đất làm giới hạn cho một vùng nước. Bến: Chỗ bờ sông, nơi tàu bè neo đậu.
1.- Bờ bến là bờ và bến, nơi giới hạn, tiếp giáp giữa sông, biển, hồ với đất liền.
Trôi nổi mãi không tầm vào bờ bến,
Sóng gió nhồi đành chịu lấp chôn.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
2.- Bờ bến còn dùng để chỉ sự giới hạn, như: Tình yêu không bờ bến.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Ðạo là tình thương, một tình thương bao la không bờ bến.
Cái nạn nhơn sanh nơi đây tự nước Việt tạo thành, chưa biết đâu là bờ bến.
(Bát Nương Giáng Bút).
Hay “Bờ dương liễu”.
Bờ: Đường nổi hay đắp đất cao lên, chỗ phân giới hai bên. Dương: Cây dương liễu.
Bờ dương, bởi chữ “Dương bạn 楊 畔” trong câu “Phụng hàm đơn chiếu đề dương bạn” tức là chim phụng ngậm chiếc chiếu về bờ dương.
Dương hay dương liễu là cây đại thụ. Đạo Đức Chơn Kinh có câu: Dương vô trần nhiễm, đạo giả như dương 楊 無 塵 染, 道 者 如 楊, nghĩa là cây dương không nhiễm trần, đạo là cây dương.
Như vậy “Bờ dương” (dương bạn) là chỉ nền đạo đức, hay bờ giải thoát.
Xem: Bờ dương bóng phụng.
1.- Bờ dương:
Bờ dương chừ đặng phong trần rảnh,
Quảy gánh thơ đàn dạo bốn phương.
(Đạo Sử).
2.- Bờ dương liễu:
Kính đem đến tận bờ dương liễu,
Tặng nghĩa đài sơn kẻ chực chầu.
(Thất Nương Giáng Bút).
Bờ dương: Chỉ bờ giác ngộ. Bóng phụng: Bóng chim phụng hoàng.
Bờ dương bóng phụng, bởi câu “Phụng hàm đơn chiếu đề dương bạn 鳳 含 丹 詔 提 楊 畔” tức là chim phụng ngậm chiếu chỉ của vua bay về bờ dương. Ý muốn nói theo chim phụng dẫn đường sẽ tìm đến bờ giải thoát.
Tiêu thiều lấp tiếng dục tình,
Bờ dương bóng phụng đưa mình nâng thân.
(Kinh Tận Độ).
Bờ dương bóng phụng buông tay trắng,
Nước Nhược non Bồng nhớ tuổi xanh.
(Thơ Vạn Năng).
Bờ: Bờ sông, bờ biển. Giác: Giác ngộ.
Bờ giác, bởi chữ “Giác ngạn 覺 岸”, trái với bến mê, là bờ mà chúng sanh tìm đến, sau khi giác ngộ, vượt qua bể khổ bằng con thuyền Bát nhã.
Bờ giác chỉ cõi của người đắc Đạo.
Đức Chí Tôn có dạy: Các con phải chịu thiệt mình để đặng cho kẻ khác vui cười, tức nhiên con đường đau khổ là con đường độc nhất của người tu hành phải trải qua mới bước đến tận nơi bờ giác.
Nước dương rưới sạch trần ai cũ,
Bờ giác nương theo nguyệt rọi làu.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Nương thuyền độ khách qua bờ giác,
Luyện tánh tầm chơn dứt mộng trần.
(Thơ Thượng Sanh).
Bở là ở tình trạng dễ rời ra từng mảnh khi chịu tác động của một lực, dễ vụn, dễ đứt, hay dễ rách ra.
Như: Đất bở như vậy mà làm sao đắp lò được, day nhợ nầy bở lắm không cột được.
Khảo cho biết bở hay bền,
Năm ba độ khảo tuổi tên bảng đề.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
Bợ là nâng đỡ lên, nịnh nọt.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Không vì công lớn mà tỏ vẻ tự đắc, lập thế chuyên quyền làm điều trái đạo cho kẻ ăn oán nuốt hờn, người thở than đau khổ, biết lo chung cho sanh chúng, không cần tiếng bợ lời khen, tự khép mình vào khuôn viên đạo đức, treo tấm gương thanh bạch quyết thực hành tôn chỉ vì Ðạo cứu đời.
Lỗ tai bịt đừng nghe lời bợ,
Hễ dữ hung sách vở vẫn nằm lòng.
(Phương Tu Đại Đạo).
Bợ: Nâng lên từ phía dưới của vật bằng tay. Đỡ: Hứng, cầm cho khỏi rơi khỏi ngã.
1.- Bợ đỡ, như chữ “Nâng đỡ”, là đỡ lên cho khỏi ngã, khỏi chìm. Như: Phụ bợ đỡ cái bàn ra trước sân.
Biển khổ lỡ đã chơi vơi,
Nắm tay bợ đỡ kịp thời quy nguyên.
(Thất Nương Giáng Bút).
2.- Bợ đỡ còn dùng với nghĩa là nịnh hót, luồn cúi để mưu lợi. Như: Thấy giàu thì bợ đỡ.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Người có đức chí thành không hề biết dối trá gạt gẫm ai, không biết a dua, bợ đỡ, không vì lợi bỏ nghĩa, không vì mình hại người, cứ thẳng thắn đường ngay tiến bước, thà là chịu thất bại còn hơn là dụng mưu mô bất chánh để dối người, lừa bạn.
Sang cả mặc người đừng bợ đỡ,
Hoạnh tài trơ mắt khỏi tai ương.
(Giới Tâm Kinh).
Có người sợ có người bợ đỡ,
Ai đoán phân hay dở lòng người.
(Phương Tu Đại Đạo).
Xa những phường trục lợi xu danh,
Đến bợ đỡ đặng dành đi ngõ hậu.
(Phương Tu Đại Đạo).
Ngợ: Hơi ngờ, tức chưa dám tin hẳn vào điều đã nghe, đã thấy.
Bợ ngợ là ngập ngừng vì còn ngờ vực chưa biết phải xử sự ra sao.
Bợ ngợ còn có nghĩa là bỡ ngỡ, ngơ ngác, lúng túng vì chưa từng quen thuộc.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông có dạy: Lão là người đã đứng ngoài vòng thế sự hèn lâu, nên đòi phen bợ ngợ, phải tìm tàng lượng tri lý mỗi người, ôi! nghĩ nên rất khó!
Sự tìm hiểu hầu chúng ta đi đến mục đích và phải biết cho chắc rồi mới vững bước không bợ ngợ thất tâm, vì biết sự chơn thật.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
Bời bời là nhiều đến mức lộn xộn, hoặc ở trạng thái ngổn ngang, bối rối.
Như: lúa tốt bời bời, lòng rối bời bời.
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du có câu: Một mình lặng ngắm bóng nga, Rộn đường gần với nỗi xa bời bời.
Bời bời lòng những luống lo toan,
Lo đến Tổ tông chốn suối vàng.
(Đạo Sử).
Bởi là vì, cớ gì, tại đâu. Như: Bởi vì đâu, bởi tại ai.
Thánh giáo Thầy trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Ngôi vị Bạch Ngọc Kinh chẳng ưa chứa kẻ hung hăng, mà lạ một điều là kẻ hung hăng đạo đức thường phá cửa lúng đặng vào, địa vị phần nhiều đoạt bởi kẻ ấy.
Mừng thay gặp gỡ Ðạo Cao Ðài,
Bởi đức ngày xưa có buổi nay.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Cũng con cũng cái đồng môn đệ,
Bụng muốn phân chia, hỏi bởi ai?
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Bợm là kẻ chuyên lừa bịp, trộm cắp, có nhiều mánh khoé táo tợn, gian manh.
Như: Thằng bợm, nó gặp phải thằng bợm chuyên lường gạt, anh ấy là tên bợm già.
E con đến lớn nên người,
Gương cha để thẹn những lời bợm hoang.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Vợ chồng khó muối dưa tối sớm,
Còn thương nhau hơn bợm sang giàu.
(Phương Tu Đại Đạo).
Bỡn là cợt, giỡn, trêu ghẹo, tức đùa một cách không nghiêm chỉnh.
Như: Bỡn cợt, dễ như bỡn, người tu không nói bỡn, không phải chuyện bỡn.
Chỉ cho rõ tiếng muông giọng lợn,
Đờn nỉ non cợt bỡn đờn bà.
(Phương Tu Đại Đạo).
Bỡn: Trêu, đùa một cách không nghiêm chỉnh. Cợt: Trêu đùa, ghẹo chọc.
Bỡn cợt là trêu ghẹo một cách không nghiêm chỉnh, để đùa vui.
Như: Anh ấy tính hay bỡn cợt.
Phú quý lợi danh thường bỡn cợt,
Công hầu khanh tướng cũng trêu chơi.
(Thơ Thạnh Đức).
Bợn là bụi, cáu bẩn, vẩn đục. Như: Lau sạch bợn trên tủ, quét sạch bợn rác, bợn trần.
Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông có dạy: Ðã chẳng biết tự cải lại bợn thêm tánh tối tục mà để cho cả muôn người phải chịu khổ tâm, thế thì hành đạo như vậy có giúp đặng ai chăng?
Nghèo cùng mà chẳng bợn của ai,
Thân cũng yên thân, tánh chẳng nài.
(Đạo Sử).
Mày xanh khá nhớ cơn đầu bạc,
Ngọc trắng đừng cho nhiễm bợn bùn.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Bợn: Không trong, đục. Nhơ: Dơ, không sạch.
Bợn nhơ là dơ bẩn, không trong sạch.
Thánh giáo Thầy có câu: Ai là khách hữu phần, ai là người vô quả, tánh thiêng liêng đã vì công lý mà ra tay tế độ, vớt kẻ giữa bến trần, khá biết thời thế lần vào nương dựa bóng thái dương, để bước vào con đường minh huệ, tìm suối lặng non Thần, rửa chút bợn nhơ đã vì phong trào mê muội mà cam chịu lấp kín gót trần.
Gót ngọc đài vân còn rõ dấu,
Hương đưa chẳng chút bợn nhơ sầu.
(Bát Nương Giáng Bút).
Bợn: Không trong, đục. Sầu: Buồn rầu.
Bợn sầu là những thứ sầu não, buồn đau chất chứa trong tâm hồn như chất nhơ bợn, làm cho tâm hồn con người nặng nề ô trược.
Thánh Ngôn Sưu Tập có câu: Đời dời đổi, Đạo chờ người, khách tục nương thuyền độ, non Tiên tiếng khánh đưa, gắng nhọc thế lọc lừa, tìm đường ngay thẳng rẳng. Nguồn Đạo rửa bợn sầu, nhiều đường cay đắng, bước nâu sồng dặm lắm gay go, liệu sao khỏi trễ con đò, mới thoát vòng khổ hải.
Thuyền chờ bến tục buồm trương sẵn,
Ðưa đến nguồn trong rửa bợn sầu.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Soi gương hạnh đức trau lòng tục,
Hứng giọt Từ Bi rửa bợn sầu.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Bợn: Không trong, đục. Tục: Cõi tục, cõi trần.
Bợn tục, cũng như bợn trần, là những thứ dơ bẩn, ô trược nơi cõi thế tục.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thầy có dạy: Các bậc Thần, Thánh, nếu chẳng biết mối đạo là phương châm tìm nguồn trong rửa bợn tục, thì biển trần khổ nầy cũng khó mong thoát đặng.
Xem: Bợn trần.
Xạo xự tuồng đời lừng bợn tục,
Trau tria nét đạo nực mùi hương.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Lánh bợn tục tình thâm cũng tránh,
Trốn đau thương xa cảnh trần gian.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Nẻo Tiên lối cũ thân dầu toại,
Bợn tục đường xưa bước đã nhàm.
(Thơ Đức Hộ Pháp).
Bợn: Dơ bẩn. Thế 世: Thế gian, chỉ cõi đời.
Bợn thế là những thứ dơ bẩn trong cõi thế gian, khiến cho thân tâm người tu hành bị uế trược.
Bợn thế đồng nghĩa với bợn tục, bợn trần.
Lợt điểm Thánh tâm trần tục khảo,
Vẻ tươi bợn thế nét dò đon.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Kìa những kẻ mơ màng bợn thế,
Mãi đua chen tầm kế hại nhau.
(Cửu Nương Giáng Bút).
Đến trước ngọc thềm Trời điểm mực,
Rảo lần bợn thế đất in chân.
(Thanh Sơn Đạo Sĩ).
Bợn: Không trong, đục. Trần: Cõi trần, cõi tục.
Bợn trần là những thứ dơ bẩn nơi cõi trần, làm thân tâm con người bị uế trược.
Trần gian tánh vốn không trược (dơ bẩn), vì bị ngũ trược ô nhiễm, trở nên ô uế, không khiết tịnh. Tỷ như nước, tánh vốn sạch, trong trẻo, bị ô nhiễm đất, bùn vào sẽ trở thành đục, bẩn thỉu, nhưng khi lóng, gạn hết bụi đất, tánh trong của nước hiện ra.
Nước ví như chân tánh, đất bụi ví như phiền não. Bản tánh con người luôn trong sạch, do vọng niệm, tham dục, mê mờ che lấp, khiến tánh thuần nhiên thanh tĩnh không hiển hiện được, nên cứ chìm sâu vào luân hồi sanh tử.
Nếu muốn trở lại chân tánh thì phải giống như lóng nước đục: Gạn sạch hết bụi đất đi rồi thì chỉ còn nước trong, sạch. Ở đây, chúng ta gạn hết những phiền não ra khỏi bản tâm thì lúc ấy ta đã đoạn trừ được vô minh, mầm của luân hồi sanh tử.
Thánh giáo Thầy có câu: Ngày nầy năm trước, các con vẫn còn mơ màng trong giấc mộng trần, đường co duỗi vẫn đã lấp kín chút bợn trần, mà màn thế tục cũng chưa trông khoả vén.
Trau tâm hiệp sức vun nền Thánh,
Dưỡng tánh chờ khi sạch bợn trần.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Hứng lằng gió huệ tan niềm tục,
Mượn giọt cành dương rửa bợn trần.
(Thơ Thuần Đức).
Huỳnh Đình mấy cuốn hằng ngâm đọc,
Ngõ hoạ thân sau khỏi bợn trần.
(Thơ Ca Bảo Đạo).
Bợn: Vẩn, bụi, cáu bẩn. Trược: Còn đọc là trọc 濁, là đục, không trong.
Bợn trược là dơ bẩn, không trong sạch. Như: Nơi bãi rác đầy bợn trược.
Tranh thế bớt pha lằn bợn trược,
Cuộc đời thêm rạng vẻ thanh bai.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Bớt là giảm đi, lấy một ít, làm kém đi ít nhiều. Như: Bệnh đã bớt, ăn bớt của dân, bù đi bớt lại.
Thánh giáo Thầy có đoạn dạy: Thầy giao Nữ phái cho con rộng quyền dạy dỗ, làm chủ, chờ Thầy thâu đến mà giao cho con. Trách nhậm con, Thầy chia bớt với.
Phải chừa thói loài ong tay áo,
Bớt học đòi khỉ dạo dòm nhà.
(Kinh Sám Hối).
Dọn mình cho sạch bớt phàm tâm,
Lẽ chánh tà kia phải xét thầm.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Brahma Phật, Hán dịch Phạm Ma Phật 梵 摩 佛, là vị Phật giáng trần trong thời kỳ Thượng nguơn hay nguơn Thánh đức tức là nguơn vô tội.
Brama Phật là một trong ba vị Phật được gọi là Tam Thế Phật thờ trên nóc Bát Quái Đài, Toà Thánh Tây Ninh. Ngài đứng trên mình con Huyền Nga, tay mặt bắt ấn khai nguơn, tay trái nắm bửu châu, mặt nhìn về phía Tây, tức hướng mặt trời lặn, biểu tượng cho sự lo lắng của Ngài khi cõi trần sắp chìm sâu trong nguơn tranh đấu điêu tàn.
Brahma Phật thuộc ngôi thứ nhứt, điều khiển Thượng nguơn Thánh đức, chủ về cơ sanh hoá.
Trong Di Lạc Chơn Kinh có câu: Thượng Thiên Hỗn Nguơn hữu: Brahma Phật, Civa Phật, Christna Phật, Thanh Tịnh Trí Phật, Diệu Minh Lý Phật...
Nóc Bát Quái có Tam thế phật,
Phật Brahma day mặt Tây Phang.
(Lược Thuật Toà Thánh).
Bu là bâu, đậu, bám xúm xít vào.
Bu còn có nghĩa xúm xít lại, vây lấy, tụ tập lại một nơi với số lượng lớn.
Như: Ruồi bu kiến đậu, bọn nó nghe tin phát tiền vội bu xung quanh bàn đông như kiến.
Bớ bớ ai ôi, có phải điên,
Đạo không đoái đến cứ bu tiền.
(Cao Liên Tử).
Bú là ngậm vú mà hút sữa. Như: Con khóc mẹ mới cho bú, bé chưa bỏ bú.
Trong Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Chúng ta quan sát dầu anh em một nhà, đứa út còn bú chưa biết tôn sùng anh cả thế nào, nó chỉ biết mầy tao, mi tớ với nhau mà thôi. Kỳ dư chúng ta biết chút đỉnh khôn ngoan, chúng ta biết lễ phép.
Đừng thấy lẫn rầy la mà phụ,
Phải nhớ hồi còn bú tới thôi nôi.
(Phương Tu Đại Đạo).
Bù là thêm vào cho đầy đủ, do có phần mất mát, thiếu hụt. Như: Bù lỗ, bù tiền, làm bù, hơn bù kém.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Bần Ðạo nói không nợ tình nhỏ nào đối với Ngài mà bị mất không được đền bù lại, trong 24 năm chúng ta làm tôi làm môn đệ cho Ngài, chúng ta chỉ có một điều duy nhứt là hiến dâng cả thi hài ta làm con tế vật cho Ngài, đặng Ngài dùng từ tâm ân xá cho toàn nhân loại đã gây tội tình với Ngài từ buổi tạo thiên lập địa tới giờ ta sẽ đạt được hồng ân của Ngài là ân xá lần thứ hai, trên mặt địa cầu nầy vậy.
Hằng ngày dâng miếng ngọt mùi lành,
Đền bù thuở nhọc nhằn già lúc trước.
(Phương Tu Đại Đạo).
Bù: Thêm vào cho đủ, do có chỗ mất mát, thiếu hụt. Chì: Một thứ kim loại màu xám, mềm, dễ nóng chảy.
Bù chì là chăm lo che chở, nuôi nấng hoặc giúp đỡ một cách ân cần.
Thuyết Đạo Hộ Pháp, nói về tích “Bù chì” như sau: Có một bà mẹ đó nhiều con, rồi họ xúm lại với nhau thay phiên đặng nuôi mẹ. Hễ khi anh cả nuôi rồi thì cân được bao nhiêu, tới em thứ nuôi, rồi cân phải hơn ra hay như số đấy mới đặng. Nhưng trong đám con ấy rủi thay người nghèo mà là út, kẻ nghèo ấy lại được bà mẹ yêu ái bênh vực hơn, phần nghèo khó có phương gì nuôi mẹ cho đầy đủ đặng, nên hễ khi trao đổi đến nơi tay cái người út ấy, thì bả ốm o gây mòn. Ăn không đủ thế nào cũng ốm, bây giờ đến phiên ngày cân, đây thì bà phải làm sao, bà lận lưng thêm chì cho nặng để cân, không thì tội nghiệp cho đứa nhỏ nghèo. Cho nên lời tục họ gọi là "Bà mẹ thương con phải bù chì" là lẽ ấy.
Đừng so sự bù chì nặng nhẹ,
Mẹ đã cân con để đứa nào hèn.
(Phương Tu Đại Đạo).
Bù nhìn là vật bằng giấy, rơm giả hình người dùng để doạ chim thú, hoặc dùng để diễn tập chiến đấu.
Bù nhìn là một hình nộm, không làm gì, nên người ta thường dùng để chỉ kẻ có chức vụ mà không có quyền hành, chỉ làm theo lệnh của người khác.
Như: Chính phủ bù nhìn.
Vắng dạng nhưng trong đầu chẳng có,
Mảnh thân phàm tục vốn bù nhìn.
(Đạo Sử).
Tỷ như một đám bù nhìn,
Cân đai một vẻ thân hình một nơi.
(Ngụ Đời).
Thấy đi ngang mắt chẳng dám nhìn,
Sợ lầm tưởng bù nhìn ghê gớm mắt.
(Phương Tu Đại Đạo).
Búa là dụng cụ bằng sắt có lưỡi hoặc không có lưỡi, dùng để đập, đóng, nện hay bổ.
Như: Búa rìu, búa bổ củi, múa búa trước Lỗ Ban, nện một búa thật mạnh.
Cây ăn lưỡi búa đã mòn,
Rừng cao hết củi nồi còn không cơm.
(Ngụ Đời)
Lỗ Ban: Một người thợ mộc giỏi có danh tiếng thời Xuân Thu.
Búa Lỗ Ban, như câu “Ban môn lộng phủ 班 門 弄 斧”, là múa búa trước cửa nhà của Lỗ Ban, ví trường hợp làm việc mình không thạo trước mặt người rất thành thạo.
Búa Lỗ Ban đồng nghĩa với câu tục ngữ “Múa rìu qua mắt thợ”.
Xem: Lỗ Ban.
Xách búa Lỗ Ban đương chỉ vẽ,
Xây thành cảnh đẹp rất nên hay.
(Thiên Thai Kiến Diện).
Búa: Đồ dùng bằng sắt có lưỡi để bổ, hoặc không có lưỡi để đóng. Rìu: Dụng cụ để đẽo và chặt, gồm một lưỡi hình thang được tra vào cán.
Búa rìu là búa và rìu, dùng để ví sự phê phán nặng nề, nghiêm khắc.
Như: Búa rìu dư luận.
Mấy ai buồn ít vui nhiều,
Vui thân nô lệ búa rìu cũng cam.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
Búa: Cây rìu, cây búa. Việt 鉞: Cái búa lớn.
Búa việt, bởi chữ “Phủ việt 斧 鉞”, là một vật dùng để xử tử kẻ phạm tội trong quân đội ngày xưa, nên trên lưỡi của búa việt có khắc bốn chữ “Việt sát phản thần 鉞 殺 反 臣” nghĩa là búa việt giết tôi phản thần.
Xem: Búa việt cờ mao.
Đỡ nâng vạc cả dành tay Đạo,
Búa Việt phải toan gắng giữ gìn.
(Quyền Giáo Tông).
Búa việt, Cờ mao là vật thể hiện binh quyền của vua Hiên Viên Huỳnh Đế ban cho các Trấn chư Hầu đặng quyền chinh phạt. Đáng giết thì ban búa việt, đáng phạt thì phát cờ Mao, nên trên lưỡi của búa việt có khắc bốn chữ: “Việt sát phản thần 鉞 殺 反 臣”, trên lá cờ mao có đề bốn chữ “Mao trừ loạn tặc 旄 除 亂 賊”. Đến thời Ngũ đế, Thương, Châu cũng còn dùng búa Việt, cờ Mao.
Xem: Mao việt.
Non nước muốn nêu danh tuấn kiệt,
Ðến hồi búa Việt giục cờ Mao.
(Đạo Sử).
Búa Việt cờ Mao vâng sắc chỉ,
Điều binh khiển tướng dẹp can qua.
(Thơ Thái Đến Thanh).
Bùa là vật bằng giấy hay vải mà người ta cho là có phép thiêng trừ ma quỷ, tránh được tai nạn hay mê hoặc được người khác.
Như: Bùa mê thuốc lú, cổ đeo bùa, ếm bùa trước sân, bùa trừ ma quỷ.
Danh vốn là bùa mê muội thế,
Thế không đạo đức thế không thành.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Bủa là vây bọc khắp nơi, tức làm cho phân ra để bao lấy một phạm vi rộng.
Thuyết Đạo Hộ Pháp có đoạn: Mấy em thí nghiệm coi rồi để tâm cả thảy, nếu muốn cho Bà (Phật Mẫu) thương yêu, mình có cái Bí pháp hay ho hơn hết, mấy em thương yêu những kẻ tật nguyền, đau khổ, ngu hèn, khốn mạt, mấy em thử nghiệm lấy cái huyền linh của Bà. Qua cầu chúc ân Thiêng liêng của Bà chan rưới bủa khắp toàn thể con cái của Đức Chí Tôn Nam cũng vậy, Nữ cũng vậy, nhứt là mấy đứa thơ sinh, mấy đứa trẻ nhỏ côi cút.
Gặp tiết đông thiên sương tuyết bủa,
Chỉ còn tòng bá chẳng còn hoa.
(Giới Tâm Kinh).
Tuyết sương bủa giá đâu nài,
Vì đâu sanh chúng ra ngoài phòng khuê.
(Bát Nương Giáng Bút).
Chờ gặp cơn hoa cợt đài trăng,
Bủa lưới bắt ả Hằng đem nhốt rọ.
(Phương Tu Đại Đạo).
Bủa: Vây bọc khắp nơi. Đức: Cách cư xử, thái độ tốt đẹp hợp với đạo lý, nhơn đức.
Bủa đức là thi hành nhơn đức khắp mọi nơi đối với dân chúng.
Bủa đức đồng nghĩa với từ “Bố đức 布 德”.
An nước an dân toan bủa đức,
Sửa cơn nắng tối lại mưa mai.
(Đạo Sử).
Lập quyền vẹn giữ gương từ ái,
Bủa đức bền trau chí Thánh hiền.
(Thơ Tiếp Đạo).
Bủa: Vây bọc khắp mọi nơi. Giăng: Trương, tức căng thẳng ra theo bề dài hoặc theo mọi hướng trên bề mặt.
Bủa giăng là bủa ra khắp mội nơi, tựa như giăng lưới, ý chỉ bao phủ khắp mọi nơi.
Như: Bủa giăng cả khu rừng để bắt chim.
Trên đầu có bủa giăng Thần, Thánh,
Xét xem người tánh hạnh dữ hiền.
(Kinh Sám Hối).
Bùi là có vị ngon, hơi béo như vị của hạt lạc, hạt vừng, hay hạt dẻ.
Như: Hạt lạc càng nhai càng bùi, yêu con cho roi cho vọt ghét con cho ngọt cho bùi.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Chơn lý của Ðạo những luống mờ hồ nên Chí Tôn buộc lòng phải đến tạo nền Ðạo Cao Ðài, chủ trương cho loài người một đại nghiệp, hiệp một hoàn cảnh, chung sống nhau một tinh thần, một căn bản, quy tựu cho toàn sắc dân, hầu bảo trọng cái sống của nhau, sớt ngọt chia bùi, bảo tồn nhau cho qua sự khảo đảo đau đớn nơi khổ cảnh nầy từ trước.
Kiến thân viếng sớm thăm hôm,
Chua cay rõ miếng cơm ngon cá bùi.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Hết ham danh, chẳng mến công,
Xem hình lẫn lộ, bùi nồng thế gian.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Bùi Ái Thoại tên thật là Bùi Văn Dậu, sanh năm Mậu Thân 1908 (Sớ Cầu Đạo ghi sanh năm Quý Sửu 1913), tại làng Hậu Thành, quận Cái Bè Mỹ Tho. Nghề nghiệp thợ vẽ. Thân phụ là Bùi Văn Hên, thân mẫu là Huỳnh Thị Ngà.
Ngài Bùi Ái Thoại nhập môn vào đạo Cao Đài ngày 7 tháng 10 năm Đinh Mão (Dl. 1-11-1927) tại Hậu Thành, Cái Bè. Ban đầu, Ngài vào làm công quả nơi Sở Lương Điền Công Nghệ ở tộc đạo Cái Bè.
Năm 1933, Ngài Bùi Ái Thoại lập gia đình, sanh được một đứa con gái rồi vì lâm trọng bịnh mà chết theo mẹ. Năm 1935, Ngài xin phép cha mẹ vợ để về Toà Thánh hiến thân làm công quả. Ngài trình diện Đức Hộ Pháp, được bổ vào sở Phước Thiện Bò Cạp. Năm 1936 khởi công cất Toà Thánh, Ngài Bùi Ái Thoại được giao trách nhiệm Tá Lý Sở Đắp Vẽ.
Năm 1941, sau khi Đức Hộ Pháp bị Pháp bắt lưu đày, Ngài Bùi Ái Thoại không về nguyên quán, ở lại hiệp với Chí Thiện Lê Văn Gấm tạo lập lò chén thuộc Sở Công Nghiệp Giang Tân. Năm 1945, sau khi Pháp bị quân đội Nhựt đảo chánh, Hội Thánh hoạt động xây dựng trở lại, Ngài xin tái thủ phận sự Tá Lý Sở Đắp Vẽ để tiếp tục công trình của Đức Hộ Pháp giao lại. Nhờ ân điển thiêng liêng, Ngài đã đắp hầu hết các bức tượng các vì Giáo chủ Tam Giáo và chư Phật Tiên Thánh Hiền nơi Toà Thánh.
Ngài liễu đạo vì lâm bịnh nặng vào ngày 29 tháng giêng năm Bính Tuất (Dl. 2-3-1946), hưởng dương 38 tuổi, phụng sự cho Đạo được 19 năm.
Năm 1947, trong một đàn cơ, Bát Nương cho Hội Thánh biết Ngài Tá Lý Bùi Ái Thoại đã đắc đạo vào hàng Phối Thánh.
Phối Thánh từng nghe Bùi Ái Thoại,
Bút Thần còn tạc bức tranh phơi.
(Thơ Thông Quang).
Danh Bùi Ái Thoại đẹp muôn vàn,
Đắc Thánh nhờ công rất vẻ vang.
(Cội Đạo Bốn Mùa).
Bùi ngùi là vì thương cảm, nhớ tiếc mà có cảm giác buồn đến mức gần như muốn khóc.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Bần Đạo nhớ lại khi Đại Từ Phụ mới đến, Ngài gởi con cái của Ngài với sứ mạng thiêng liêng đến thế gian nầy cùng Ngài, đến chung hiệp làm một cùng nhau đặng lập thành thánh thể của Ngài. Hai mươi mấy năm, chúng ta tưởng lại sự khổ tâm nhọc trí của Ngài, chúng ta phải bùi ngùi cảm động.
Lách tách mưa thưa đêm bứt rứt,
Bùi ngùi trống gióng tiếng đìu hiu.
(Thơ Thượng Sanh).
Thi xã bùi ngùi duyên nợ chữ,
Nỉ non đêm quạnh nhạn kêu đàn.
(Thơ Thuần Đức).
1.- Bụi là những chất li ti bay lơ lửng trong không khí hoặc bám trên bề mặt các vật, như gió bụi, bụi cát.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Xôn xao gió bụi, mờ mệt tuồng đời, mồi phú quý bả công khanh, mấy kẻ biết nhuộm nét nâu sồng, lánh cả muôn sự não phiền mà khách trần đều gọi là vinh diệu.
Mùi thế xưa còn lằn bụi trược,
Mạch sầu nay rửa bến sông hương.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Bụi đất của trần là của tục,
Chưa ai đem đổi cảnh an nhàn.
(Đạo Sử).
2.- Bụi là đám cây cỏ mọc sát nhau, cành lá chen chúc chằng chịt, rậm rạp.
Thánh giáo Thầy có câu: Thầy khuyên các con theo sau Thầy mà đến phẩm vị mình thì hay hơn tuông bờ lướt bụi, đi quanh kiếm quất, nghe à.
Từ chùa Gò Kén đổ đường,
Băng rừng lướt bụi đêm trường bình yên.
(Quang Cảnh Toà Thánh).
Bụi: Những chất li ti bay lơ lửng trong không khí hoặc bám trên bề mặt các vật.
Bụi bặm là bụi bay lơ lửng trong không khí hay bụi bám trên bề mặt các vật, làm cho bẩn.
Như: Nhà cửa, bàn ghế đầy bụi bặm.
Nay đắc thế vui cười cho lắm,
Sau này thời bụi bặm lấp thân.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
Bụi: Theo Phật, chữ bụi trong từ “Bụi hồng”, không có nghĩa là đất cát, mà chỉ cho những việc rối rắm, phiền não làm cho con người ô nhiễm. Hồng: Đỏ, màu đỏ.
Bụi hồng, như chữ “Hồng trần”, là bụi đỏ, dùng để chỉ chốn trần gian thế tục, nơi nhiều cám dỗ, tranh giành danh lợi, tài sắc và do đó nhiều đau khổ.
Bụi hồng còn dùng để nói về cảnh phồn hoa náo nhiệt ở cõi trần.
Phủi sạch bụi hồng cho rảnh kiếp,
Thân còn chẳng kể, kể chi duyên.
(Đạo Sử).
Khua chuông cảnh tỉnh vang khuya sớm,
Giục khách phồn hoa lánh bụi hồng.
(Thơ Thượng Sanh).
Tuồng đời mộng ảo có chi mong,
Giành giựt càng thêm lắm bụi hồng.
(Cao Liên Tử).
Bụi: Những chất vụn nhỏ li ti bay lẫn trong không khí hay bám trên bề mặt các vật. Thế 世: Chỉ cói thế gian.
Bụi Thế, như chữ “Bụi trần”, chỉ cõi thế gian đầy sự rối rắm, phiền não.
Bụi thế chỉ cõi người đang sống.
Giữa bụi thế giữ sao khỏi vấy,
Biết ăn năn xét lấy sửa lòng.
(Kinh Sám Hối).
Bụi: Cát bụi. Trần: Có nghĩa là bụi bặm, chỉ cõi thế gian, nơi con người đang sống.
Bụi trần, như chữ “Trần cấu 塵 垢”, tức là bụi bặm của cõi trần gian, chỉ cõi con người đang sống.
Cuộc thế lạnh lùng làn gió lọt,
Ðường đời ngán ngẩm bụi trần lồng.
(Đạo Sử).
Càng xa càng lánh đạo Trời,
Đem thân vùi lấp vào nơi bụi trần.
(Thất Nương Giáng Bút).
Bùn là đất lầy, do đất nhão hoà lẫn trong nước. Như: Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Thầy dạy Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu có đoạn: Ðổ đường đen vào một cái hũ, thọc lủng đít, rồi định chừng cho vừa hai phần hũ đường, còn một phần hũ thì đổ bùn non cho tới miệng, đem phơi nắng chừng một tuần thì đường trở nên trắng, gạt lớp bùn đi thì con đặng một thứ đường trắng phau phau rất ngon, rất đẹp đó con.
Mày xanh khá nhớ cơn đầu bạc,
Ngọc trắng đừng cho nhiễm bợn bùn.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Bùn: Đất nhão do hoà lẫn trong nước. Lầy: Do đất thường xuyên ngập nước có nhiều chất bùn.
Bùn lầy là bùn nhiều trên một diện tích rộng, làm cho lầy lội, như bùn lầy nước đọng.
Thánh giáo Bát Nương Diêu Trì Cung có dạy: Nhơn sanh chưa từng hưởng mà đã từng chịu bao nhiêu nhọc nhằn đau đớn. Đời đã thị chúng như cỏ rác, Đạo nên vớt chúng khỏi bùn lầy, chớ coi chúng như gỗ lăn tròn thì dựng thái bình nơi đâu, mấy bạn?
Cũng như hoa sen mọc nơi bùn lầy nước đọng mà không nhiễm chút mùi bùn...
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
Bùn: Đất bị lầy, do đất nhão hoà lẫn trong nước. Than: Nung gỗ cháy thành đen, dùng để đốt.
Bùn than, dịch từ chữ “Đồ thán 塗 炭”, tức là bùn lầy và than nóng, dùng để ví cảnh đau khổ, vất vả của nhân dân như bị sa xuống cảnh bùn lầy, rơi vào than lửa.
Chớ nệ thân vùi nơi lửa nước,
Miễn dìu người khỏi lối bùn than.
(Thơ Cao Liên Tử).
Búng là chỉ lượng chứa đầy trong miệng.
Như: Ngậm một búng cơm, miệng nhai một búng cá, ăn búng thịt với nem nướng.
Búng cơm nắm thịt tình nên thẳm,
Giọt sữa gầy xương nghĩa quá dài.
(Phương Tu Đại Đạo).
Búng rảy là tỏ ý trề nhún, khinh thường.
Trong Thánh Ngôn Sưu Tập, Thánh giáo Bát Nương Diêu Trì Cung có câu: Các em nhớ điều ấy, đừng xem thường, đừng hy sinh vô lối, đừng búng rảy, đừng để thất vọng rồi xa Thầy xa Đạo thì công quả của các em mới trọn vẹn, bằng chẳng thì chỉ đi ngược chiều với Thánh ý Đại Từ Phụ đó đa.
Đừng cậy sắc dọc ngang búng rảy,
Dầu ngu si cũng ngãi vợ chồng.
(Bát Nương Giáng Bút).
Bùng là phát sinh đột ngột với sức tác động tăng lên mạnh mẽ.
Như: Ngọn lửa đang âm ỉ bỗng cháy bùng lên, gió thổi mạnh làm bùng tấm manh đậy lúa.
Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Giá trị thiệt hay không là ngọn lửa thiêng ấy làm cho bùng dậy Quốc hồn nước Việt Nam, tinh thần tối cổ và văn minh tối cổ của nòi giống, cái đó là trọng hệ hơn hết.
Nhắn khách buồng the nên cẩn thận,
Ém đầu ra đấy chớ cho bùng.
(Thơ Thuần Đức).
1.- Bụng là bộ phận chứa ruột, gan trong thân thể con người hay thú vật. Như: Bụng trên, bụng dưới, đau bụng, bụng cá đầy trứng.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Muốn cho nhà thiệt cao, áo thiệt tốt, mượn lốt cọp doạ cáo bầy, bụng trống lổng, túi thâu đầy toan làm thầy lũ dại.
Bụng trống thảnh thơi con hạc nội,
Lúa đầy túng tíu phận gà lồng.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Mổ bụng độn vàng, quăng phổi ruột,
Xẻ đầu nhét sách, ốm hình thù.
(Thiên Thai Kiến Diện).
2.- Bụng là biểu tượng cho tình cảm, ý nghĩ sâu kính đối với người với việc. Như: Suy bụng ta ra bụng người.
Thánh giáo Thầy có câu: Thầy giữ Nữ phái lại cũng vì con. Thầy kêu nó không đến, Thầy dạy nó không nghe, muốn phạt cho đáng kiếp mà bụng cũng chẳng đành.
Ðừng bụng nghi nghi rồi hoặc hoặc,
Tự nhiên rõ thấu Ðạo cao thâm.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Hương huê quá giấc chẳng lui chơn,
Chẳng phải khó thân để bụng hờn.
(Đạo Sử).
Bụng trống: Bụng không có thức ăn, ý chỉ đói. Hạc nội: Con hạc ở đồng nội.
Tuy là bụng trống, nhưng hạc ngoài đồng nội rất thảnh thơi, tự tại.
Do câu thơ của Lý Bạch viết: Lung kê hữu mễ thang oa cận, Dã hạc vô lương Thiên Ðịa khoan 籠 雞 有 米 湯 堝 近, 野 鶴 無 糧 天 地 寬, nghĩa là gà lồng có lúa đầy bụng hằng ngày mà nồi nước sôi hằng cận bên, không biết phải bị giết ngày nào. Còn con hạc nội, tuy bữa đói bữa no, nhưng Trời Ðất rộng thinh, mặc tình cao bay xa liệng.
Ý nói thà cực mà được thong thả, còn hơn sướng mà phải chịu nguy hiểm.
Bụng trống thảnh thơi con hạc nội,
Lúa đầy túng tíu phận gà lồng.
(Nhàn Âm Đạo Trưởng).
1.- Buộc là trói, làm cho giữ chặt ở một vị trí bằng sợi dây cột lại.
Như: Buộc dây, chuốt lạt buộc, buộc trâu vào chuồng, buộc vết đau.
Ham buộc nhiều ngoai thêm khó mở,
Ðến nhiều phận phải mất hao phần.
(Đạo Sử).
2.- Buộc là gán ghép, tức làm cho hoặc bị lâm vào thế nhất thiết phải làm điều gì đó trái với ý muốn. Như: Buộc thôi việc, buộc phải ăn, buộc lòng, buộc phải tự vệ.
Thánh giáo Thầy có đoạn: Các con phải hiểu rằng: Thầy là huyền diệu thế nào! Cách dạy, Thầy buộc tuỳ thông minh của mỗi đứa mà dạy. Dầu cho thầy phàm tục cũng phải vậy, nếu đứa dở mà dạy cao kỳ, nó biết đâu mà hiểu đặng.
Buộc yêu thương bạn đồng môn,
Nghĩa nhân vẹn giữ xác hồn trăm năm.
(Kinh Thế Đạo).
Ðã chẳng phải duyên không phải nợ,
Can chi con buộc tấm tình riêng.
(Đạo Sử).
Buộc: Lấy dây quấn, thắt lại. Ràng: Trói chặt bằng nhiều vòng dây.
Buộc ràng, như chữ “Ràng buộc”, là trói buộc lại, không để cho được tự do.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thầy có dạy: Thầy lấy đức háo sanh mở Ðạo lần ba mà vớt kẻ hữu phần, tránh khỏi nơi buộc ràng khổ phạt.
Dầu trọn kiếp sống không nên Đạo,
Dầu oan gia tội báo buộc ràng.
(Kinh Tận Độ).
Tan tành nhớ đến gánh giang san,
Lòn cúi thương dân lắm buộc ràng.
(Đạo Sử).
Cửa Thiên đâu có chức quan,
Xưng danh Bà Lớn buộc ràng người thưa.
(Bát Nương Giáng Bút).
Buộc: Lấy dây quấn, thắt lại. Trói: Ràng, buộc lại.
Buộc trói, cũng như “Trói buộc”, là bị buộc bị trói. Nghĩa bóng: chỉ sự ràng buộc, không để cho tự do.
Giải về “Bất du đạo”, Thầy có câu: Quyền, Thầy cũng ban cho các con in như Thầy đã ban cho chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, hầu cho đủ thế kềm thúc lấy nhau đặng giữ vẹn Thánh chất yêu sanh của Thầy, mà quyền ấy trở nên một cơ thể buộc trói nhơn sanh trong vòng tôi mọi.
Nửa mái tóc tơ còn buộc trói,
Ðem mình toan gởi cửa anh linh.
(Đạo Sử).
Nếu phải nợ tránh đâu cho khỏi,
Phòng dụng tình buộc trói lấy nhau!
(Phương Tu Đại Đạo).
Đai cân buộc trói khôn ra dại,
Trí huệ trau dồi tục ấy Tiên.
(Thơ Thượng Sanh).
1.- Buổi chỉ khoảng thời gian trong một phần của ngày. Như: Buổi sáng, buổi khuya, ngày hai buổi đi làm, đi mất một buổi đường.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển. Thầy có dạy: Phải thường hỏi lấy mình, khi đem mình vào lạy Thầy buổi tối, coi phận sự ngày ấy đã xong chưa, mà lương tâm có điều chi cắn rứt chăng?
Lằn thân ái sương tan buổi sớm,
Giấc mộng hồn chưa dợm tỉnh hồn.
(Nhàn Âm Đạo Trưởng).
Cửa ngươi cửa đoạ cửa đày,
Ghét ngươi ta dứt từ ngày buổi ni.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Mùng màn phải quạt giăng buổi tối,
Đừng bỏ quên để muỗi chun vào.
(Phương Tu Đại Đạo).
2.- Buổi là lúc, hồi, tức khoảng thời gian nhất định mà sự việc nói tới xảy ra, như buổi ra đi, buổi giao thời.
Thánh giáo Thầy có đoạn: Ðã bị tội cùng Thiên đình thì bị hành phạt. Nơi kiếp sống nầy, nếu không biết tu, buổi chung quy sẽ mắc tội nơi Thiên đình.
Mừng thay gặp gỡ Ðạo Cao Ðài,
Bởi đức ngày xưa có buổi nay.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Ðường Tâm cửa Thánh dầu chưa vẹn,
Có buổi hoài công bước Ðạo tầm.
(Diêu Trì Kim Mẫu).
Buồm là vật bằng vải hay cói căng ra ở cột thuyền để hứng gió, dùng sức gió đưa thuyền đi, chỉ thuyền buồm.
Trong thi văn Đại Đạo, các Đấng Thiêng liêng hoặc các thi nhân thường dùng “Thuyền buồm” ví với nền Đạo, để đưa chúng sanh thoát khỏi sông lệ, con sông đau khổ.
Màn Trời mây khoả muôn sao lố,
Thuyền Ðạo buồm treo một sắc phơi.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Buồm trương lái vững chờ sông lệ,
Ðưa chiếc thuyền sen đến đảnh Thần.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Hay “Buồm hạnh đức”.
Buồm: Vật căng ở cột thuyền, lấy sức gió đẩy thuyền đi. Hạnh (hạnh đức): Có đạo đức.
Theo Phật, Đạo được ví như một chiếc thuyền, có phận sự cứu vớt tất cả chúng sinh bị chìm đắm trong sông mê bể khổ để đưa sang bờ giác ngộ.
Buồm hạnh là buồm có hạnh đức, ý muốn chỉ con thuyền đạo hạnh.
1.- Buồm hạnh:
Xôn xao bến huệ trương buồm hạnh,
Mượn sức huyền linh đến bến Thần.
(Thơ Thượng Sanh).
Gặp cơn bão tố trương buồm hạnh,
Vớt kẻ trầm luân hưởng phúc riêng.
(Thơ Thái Phong).
2.- Buồm hạnh đức:
Trương buồm hạnh đức xuôi chiều gió,
Ðưa khách phồn hoa lánh nẻo phiền.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Buôn là mua hàng hoá để bán ra lấy lãi.
Như: Buôn chuyến, buôn hàng, buôn gánh bán bưng.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu dạy: Người đời chẳng khác con buôn trong buổi chợ, cả sức lực, trí não, tinh thần đều bị tiêu tán nơi ấy, vì vậy mới hoại chơn linh, thất ngôi diệt vị.
Quốc dân ăn thãi uống thừa,
Khôn ngăn bán lận khó ngừa buôn gian.
(Ngụ Đời).
Buôn: Mua hàng vô để bán lại kiếm lời. Bán: Lấy hàng hoá đổi lấy tiền.
Buôn bán, như chữ “Mua bán”, là mua và bán, tức mua hàng hoá vào rồi bán ra để kiếm tiền lời.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Mấy bà nào đó không biết giăng ngang qua hết thảy vậy, đem trại thiết giăng ngang chận đường mà năn nỉ biểu dời, đặng cho sắp nhỏ có chỗ vô nhà lồng buôn bán với, ngăn ngang qua đó, đáo để đuổi cũng không đi.
Rán chung lo buôn bán cùng chồng,
Đờn bà bán đờn ông coi tính toán.
(Phương Tu Đại Đạo).
Buôn: Mua để bán lấy lãi. Hương: Mùi thơm, chỉ về đàn bà. Như: Hương sắc, buồng hương.
Buôn hương là chỉ gái điếm, gái làng chơi. Như: Buôn hương bán phấn.
Xem: buôn hương bán phấn.
Bởi hoa chạ bên đường dễ hái,
Bởi buôn hương nặng ngãi nhiều nhơn.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Buôn bán: Mua hàng vô để bán lại kiếm lời. Hương phấn: Hương tức là hương sắc, Phấn là phấn son, như vậy Hương phấn chỉ người đàn bà con gái.
Buôn hương bán phấn là chỉ việc bán thân của hạng gái điếm, hoặc chỉ nơi chứa điếm.
Xa những kẻ buôn hương bán phấn,
Ỷ chồng thương xô lấn dọc ngang.
(Diêu Trì Kim Mẫu).
Buôn bán: Mua hàng vô để bán lại kiếm lời. Tảo tần: Ý nói người phụ nữ làm lụng vất vả, đảm đang việc nhà trong cảnh sống khó khăn.
Buôn tảo bán tần là buôn bán một cách khó khăn vất vả, ý nói người phụ nữ phải lo cuộc sống gia đình một cách khổ nhọc.
Như: Bà ấy là người đàn bà đảm đang, hằng ngày phải buôn tảo bán tần để lo cho ba đứa con còn thơ dại.
Có thân thiệt khổ cho thân,
Sớm khuya buôn tảo bán tần đủ đâu.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
1.- Buồn là không vui, rầu rĩ. Như: Đau buồn, cảnh buồn, tin buồn, đi chơi cho đỡ buồn.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thầy có dạy: Nếu các con hiểu rõ cơ huyền diệu của kiếp luân hồi con người, chẳng phải như thói thường tình định liệu, thì con không buồn và cũng không oán trách Thầy.
Bồng Lai vắng mặt Tiên buồn nhớ,
Dinh đảo nghiêng tai Thánh khảy đờn.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Bước rẽ ngùi trông cơn ác xế,
Lời trao buồn nhớ lối trăng thinh.
(Bát Nương Giáng Bút).
2.- Buồn còn có nghĩa là muốn, không nhịn được.
Như: Buồn cười, mới đốt đèn đã buồn ngủ rồi, chán quá chẳng buồn làm việc.
Ca dao có câu: Nhớ ai cơm chẳng buồn ăn, Đã bưng lấy bát lại dằn xuống mâm.
Ðêm ít ngủ ngày chẳng buồn ăn, những tìm phương cứu nước, giúp dân, lòng mong mỏi giải nàn sanh chúng.
(Điếu Văn Đầu Sư).
Buồn: Không vui, rầu rĩ.
Buồn bã là tâm trạng và tính chất buồn bộc lộ trên nét mặt, như đang tiếc xót một cái gì hay điều gì đó.
Trong Thánh Ngôn Hiệp, Lý Giáo Tông có dạy: Thưởng phạt tuy chẳng phải hữu hình, nhưng là một sự mừng vui, chưa có bậc cao thượng ở thế nào bằng, và một sự buồn bã nào sánh đặng.
Vẳng trống thu không hồi nhặt thúc,
Cảnh trời buồn bã nhớ về đâu.
(Thơ Huệ Giác).
Buồn: Không vui, rầu rĩ. Bực: Khó chịu về điều gì.
Buồn bực là buồn và khó chịu, bứt rứt trong lòng.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Mang xác thịt phải chịu một phen thống khổ, đầu óc tính toán, tại sao mình tài tình hoạt động có hơn thiên hạ, mà làm thì thất bại, tục gọi không thời buồn bực, tức tối đủ thứ, rồi đành an ủi lấy mình bằng câu: "Tài mạng tương đố" mà thật ra không biết quyền năng do đâu mình phải chịu thống khổ như thế.
Gắng công ắt đặng công mà chớ,
Buồn bực rồi sau mới có mừng.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Bởi ham nguyệt rạng lánh nhà,
Đèn chong buồn bực lập loà rèm thu.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Giả buồn bực đương khi chơi giỡn,
Con dầu theo mơn trớn cũng đừng vui.
(Phương Tu Đại Đạo).
Buồn: Muốn, không nhịn được. Cười: Nhếch môi hoặc há miệng lộ vẻ vui hay có ý tứ gì khác.
Buồn cười là khó mà nhịn được cười, làm cho không nhịn được cười.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp Có câu: Một điều Bần Đạo buồn cười hơn hết, ở ngoài đời dùng cường lực nào là bom nguyên tử, nào là gươm đao, súng đồng mọi thứ để tàn sát thiên hạ đặng làm bá chủ, đặng giành bá chủ không phải dễ làm.
Trông lui chưa toại công ti tí,
Nghĩ tới buồn cười chuyện cỏn con.
(Thơ Thuần Đức).
Buồn chia: Như chữ chia buồn, là cùng chịu một phần cái buồn. Thảm sớt: Như chữ sớt thảm, là san sớt một phần cái sầu thảm.
Buồn chia thảm sớt, như thành ngữ “Chia buồn sớt thảm”, ý chỉ san sẻ một phần những cái buồn thảm của người khác.
Buồn chia thảm sớt chẳng nên hồi,
Vinh hiển nay mình đã đặng ngôi.
(Thiên Thai Kiến Diện).
Buồn: Không vui, rầu rĩ. Hiu: Quạnh quẽ, vắng lạnh.
Buồn hiu buồn ở tâm trạng hay cảm giác vắng lạnh, quạnh quẽ.
Buồn hiu là buồn vì thất vọng, mất hứng thú. Như: Có gì đâu anh đứng buồn hiu như vậy, thua keo nầy bày keo khác, lo gì anh?.
Mịt mịt mây bay cuộn bóng thiều,
Trời thu ướt át cảnh buồn hiu.
(Thơ Thượng Sanh).
Buồn: Do cơ thể đòi hỏi nên cảm thấy cần phải làm điều gì đó, khó nén hay nhịn được. Ngủ: Nhắm mắt lại để tinh thần và thể chất yên nghỉ, không hay biết.
Buồn ngủ là ở trạng thái sinh lý con người cảm thấy muốn ngủ. Như: Mới sáng mà lại buồn ngủ.
Bần Đạo viết tới đây buồn ngủ,
Để mấy cô ví dụ xét lẽ nào.
(Phương Tu Đại Đạo).
Buồn: Không vui, rầu rĩ. Rầu: Buồn trong lòng.
Buồn rầu là có vẻ bên ngoài lộ rõ tâm trạng buồn bã.
Trong Phương Châm Hành Đạo, Đức Quyền Giáo Tông có dạy: Cứu nhân độ thế là cứu cấp những người đương hồi khốn cùng, hoạn nạn; ai đói mình cho ăn, ai khát mình cho uống, ai đau mình giúp thuốc, ai thác mình thí hòm, ai lạc nẻo mình chỉ đường, ai buồn rầu mình an ủi, ai kiện thưa tranh đấu mình kiếm chước giải hoà; bắc cầu bồi lộ cho hành khách tiện bề qua lại; in thí kinh điển, thiên thơ cho mọi người coi theo hầu cải tà quy chánh...
Lỡ làng duyên phận chớ buồn rầu,
Phải có cực nên mới tước cao.
(Đạo Sử).
Hay “Buồn tênh”.
Buồn: Có tâm trạng tiêu cực, không thích thú của người đang gặp việc đau thương.
Buồn tanh, như chữ “Buồn tênh”, là buồn vì cảm thấy thiếu vắng một cái gì đó không rõ rệt.
Như: Buồn tanh như cảnh chợ chiều.
Xem: Buồn tênh.
Thu về ngắm cảnh dạ buồn tanh,
Nhớ đạo nghĩa nhau T… xúc tình.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Bao thuở đầu non chim vắng dạng,
Thị thiềng càng thấy bắt buồn tanh.
(Đạo Sử).
Buồn: Có tâm trạng tiêu cực, không thích thú của người đang gặp việc đau thương.
Buồn teo là buồn vì cảm thấy vắng lặng, hoặc xót xa một cái gì đó không rõ rệt.
Như: Nhìn cảnh rừng núi vắng vẻ thấy buồn teo.
Chỉ nghe vượn hú chim kêu,
Buồn teo vắng vẻ sớm chiều thân côi.
(Thơ Hộ Pháp).
Buồn: Có tâm trạng tiêu cực, không thích thú của người đang gặp việc đau thương.
Buồn tênh là tẻ ngắt, không có hứng thú gì.
Buồn tênh còn có nghĩa là buồn vì cảm thấy thiếu vắng một cái gì đó không rõ rệt.
Cớ sao biền biệt bạn chi lan,
Sóc vọng buồn tênh lễ cúng đàn.
(Thơ Hoàng Nguyên).
Buồn: Có tâm trạng tiêu cực, không thích thú của người đang gặp việc đau thương. Tình: Tình cảnh.
Buồn tình là buồn vì ở trong tình trạng không biết làm gì, hay không có việc làm.
Như: Ngồi không buồn tình bỏ đi chơi.
Buồn tình lóng nam mô câu tụng,
Nhìn tượng cây rồi khủng cho thân.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Buồn: Không vui, rầu rĩ. Tủi: Tự cảm thấy buồn và thương xót cho mình.
Buồn tủi là buồn và tủi thân, tức là rầu rĩ và xót thương cho thân phận mình.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Ðặng một việc chi chớ vội mừng, thất một việc chi chớ vội buồn, vì sự mừng vui và buồn tủi thường pha lẫn kế cận nhau.
Chạnh niềm cốt nhục thêm buồn tủi,
Thương nỗi từ thân luống thở than.
(Thơ Hương Cường).
Kẻ còn dương thế đang buồn tủi,
Người đến Bồng Lai khỏi rộn phiền.
(Thơ Vạn Năng).
Buồn: Không vui, rầu rĩ. Thảm: Thảm đạm.
Buồn thảm là buồn đau, thảm đạm.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Chúng ta ngó thấy hiện tượng trước mắt nhiều lẽ bất công, kiếp sống chúng ta sanh ra trong xã hội nhơn quần nầy, ta thấy cái tương quan nó làm cho chúng ta nhiều nỗi khổ não, buồn thảm hơn là ngày vui của hạnh phúc.
Chác điều buồn thảm dẫy đầy lòng,
Hết kiếp phận mình cứ long đong.
(Đạo Sử).
1.- Buông là thả ra, bỏ xuống. Như: Buông mành, buông cần, buông câu, buông khơi.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có đoạn: Gặp đặng mối Ðạo Trời như cầm trong tay một khối ngọc còn đang ẩn đá. Phải cố tâm mài giũa, gắng công tháng lụn năm chầy thì một ngày kia mới thấy lố hình ngọc quý. Ví bằng mới mài được nửa chừng lại thối chí ngã lòng, vội buông mồi bắt bóng bỏ chạy theo mối lợi khác vô giá trị thì có phải là công phu lỡ dở, mình chịu thiệt thòi chăng?
Ðộng cũ vườn tòng sầu biếng trổ,
Non xưa rừng bá thảm buông mành.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Hễ đặng bữa cày, buông bữa giỗ,
Phân thân đâu đặng hưởng hai bên.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
2.- Buông là phát ra những lời nói, những âm thanh.
Như: Buông lời trêu ghẹo, buông lửng mấy câu, tiếng chuông đồng hồ buông ra mấy tiếng.
Như: Buông tiếng hát.
Buông những câu tục tĩu cộc cằn,
Con bắt chước khó răn khi lớn tuổi.
(Phương Tu Đại Đạo).
Buông: Phát ra những lời nói, những âm thanh. Lời: Câu nói, lời nói.
Buông lời là thả lời nói, tức nói lời trêu hoa ghẹo nguyệt, hoặc nói ra một cách hồ đồ, cẩu thả, không cẩn thận từ lời nói.
Như: Buông lời thị phi, hôm qua vì hờn giận nó buông lời mắng nhiếc.
Phải cho biết kỉnh vì trên trước,
Đừng buông lời lấn lướt hồ đồ.
(Kinh Sám Hối).
Đừng buông lời lỗ mãng hài tên,
Nhà gia pháp dưới trên cho phải mặt.
(Phương Tu Đại Đạo).
Buông: Để cho rời ra khỏi người, không còn giữ lại nữa. Lung: Hung dữ, bướng, có tánh khí ương ngạnh.
Buông lung là buông tuồng, buông thả, không còn giữ nề nếp, kỷ cương gì cả.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Quan Thừa Tướng đã hết phương rồi, nên giao cho ông bạn dạy dỗ cũng không được gì hết, cậu công tử vẫn còn buông lung điếm đàng hơn nữa, nên ông định dùng oai quyền mà trị, mới cho quan Thừa Tướng hay: "Tôi phải dụng quyền đối với lịnh lang mà đối với Ngài nữa, việc làm của tôi thế là nhẹ thể Ngài, nếu Ngài vui lòng như vậy, tôi mới sửa lịnh lang đặng".
Trai trung hiếu sửa trau ba mối,
Đừng buông lung lầm lỗi năm hằng.
(Kinh Sám Hối).
Đã đem hổ vào chôn cửa Đạo,
Còn buông lung trở tráo dối đời.
(Bát Nương Giáng Bút).
Gái lớn lên giữ chữ phụ tùng,
Trai chớ khá buông lung theo chúng bạn.
(Phương Tu Đại Đạo).
Buông: Thả ra, bỏ xuống. Trôi: Vật di chuyển theo dòng nước chảy.
Buông trôi là bỏ mặc không quan tâm tác động đến, để cho sự vật phát triển thế nào cũng được, tức là bỏ cuộc không muốn làm gì nữa.
Trong Thánh Ngôn Sưu Tập, Đức Cao Thượng Phẩm có đoạn: Bần đạo sẵn sàng giúp mấy em. Có Đạo cao tức phải có khảo nặng. Người đã sa ngã vì khảo đảo đã đành buông trôi cả công linh, đối với thiêng liêng không còn ân hận gì nữa. Đó là do nơi tâm mà thôi, mấy em nên để ý.
Mấy kẻ xét mình tâm tự cải,
Thân danh bể khổ mặc buông trôi.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Buông trôi ví chẳng tròn nhơn đạo,
Còn có mong chi đến đạo Trời.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Tòng bá rạng soi gương trí huệ,
Nghĩa nhân bền giữ chớ buông trôi.
(Thơ Tiếp Đạo).
1.- Buồng là một phần trong nhà được ngăn kín. Như: Buồng ăn, buồng học, buồng tắm.
Truyện Kiều nguyễn Du có câu: Buồng văn hơi giá như đồng, Trúc se ngọn thỏ, tơ chùng phím loan.
Dầu đến điều chung chiếu chung buồng,
Hình sè sụt ra tuồng người nhác sợ.
(Phương Tu Đại Đạo).
Hễ lấp ló vào buồng làm ngãi,
Thì làm tuồng gà mái, nằm nơi.
(Phương Tu Đại Đạo).
2.- Buồng là tập hợp hai hoặc nhiều cái cùng loại xếp thành chùm trong cơ thể.
Như: Buồng phổi, buồng gan, buồng tim.
Vũng trần suối lệ đầy vơi,
Khóc cha thương mẹ rã rời buồng tim.
(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).
Buồng: Một phần trong nhà được ngăn ra để xử dụng là việc gì. Hương: Thơm.
Buồng hương là buồng thơm, như chữ “Hương khuê 香 閨”, tức là cái khuê phòng có mùi thơm.
Buồng hương là phòng của con gái ở thường có xông hương thơm. Nghĩa bóng: Phòng con gái.
Xem: Hương khuê.
Sân ngô thi lá cơn vừa đổ,
Giạu cúc buồng hương lối ép chiều.
(Lục Nương Giáng bút).
Buồng hương quạnh quẽ khơi tâm sự,
Gối lạnh đinh ninh trọn tấc thành.
(Thơ Hàn Sinh).
Buồng: Một phần trong nhà được ngăn kín. The: Thứ hàng dệt bằng tơ, không có bông.
Buồng the là buồng treo màn bằng vải the, dùng để chỉ buồng riêng của đàn bà con gái.
Như: Phòng của con gái ngày xưa ở thường gọi là buồng the.
Buồng the chích bóng sầu chinh phụ,
Biết gởi về đâu nỗi đoạn trường.
(Thơ Huệ Giác).
Nhắn khách buồng the nên cẩn thận,
Ém đầu ra đấy chớ cho bùng.
(Thơ Thuần Đức).
筆
Bút là đồ dùng để viết, vẽ thành nét. Như: Ngòi bút, bút lông, bút chì, bứt sắt.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Thưởng thức một bài đờn hay như nghe một bài thim sắc sảo, một câu đờn tao nhã có điêu luyện như một câu thi tuyệt bút có mãnh lực gợi cảm làm cho xúc động tâm hồn.
Bút nở mùa hoa đã có chừng,
Chẳng như củi mục hốt mà bưng.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Chuyển luân thế sự đưa kinh Thánh,
Trừ diệt tà gian múa bút Thần.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
筆 花
Bút: Cây viết. Hoa: Bông hoa.
Bút hoa chỉ cây bút viết chữ đẹp như hoa.
Bút hoa còn dùng để chỉ cây bút viết ra văn chương đẹp như hoa.
Do tích Lý Bạch, một nhà thơ đời Đường nằm chiêm bao thấy cây viết mình trổ ra hoa rất đẹp. Từ đó thơ văn của ông càng ngày càng xuất sắc, tiếng tăm lừng lẫy.
Tả nỗi thảm thêm đau mấy đoạn,
Mượn bút hoa đắp cạn thành sầu.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Bút: Cây viết. Mực: Nước có màu đen, hoặc xanh, dùng để viết chữ.
Bút mực là cây viết và mực viết, dùng để chỉ học trò hoặc nhưng văn nghệ sĩ.
Má phấn dựa kề trang bút mực,
Mắt xanh khéo chọn khách quần thoa.
(Thơ Chơn Tâm).
筆 玉
Bút: Đồ dùng để viết, vẽ thành nét. Ngọc: Hạt ngọc, chỉ sự quý giá.
Trong văn chương, người ta thường dùng chữ ngọc ghép vào một vật để tăng thêm giá trị vật đó.
Bút ngọc là cây viết quý như ngọc.
Cầm bút ngọc đề thi tự thuật,
Một kiếp sanh của bậc văn tài.
(Nữ Trung Tùng Phận).
筆 研
Bút: Cây viết. Nghiên: Cái nghiên mực.
Bút nghiên là cây viết và nghiên mực, dùng để chỉ về chữ nghĩa và văn chương.
Như: Xếp bút nghiên theo việc kiếm cung.
Nấu Kinh sử ra mùi son phấn,
Cầm bút nghiên đặng thắm má đào.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Bút nghiên mượn thú làm khuây khoả,
Khuây khoả làm sao mối nợ đầu?
(Thơ Thuần Đức).
Trường đời dầu chẳng tròn ân nghĩa,
Nợ Đạo rồi xong gác bút nghiên.
(Tiếp Đạo Giáng Bút).
筆 法
Bút: Cây viết. Pháp: Phép.
Bút pháp là phương pháp viết, lối viết như thế nào cho chữ đẹp và bay bướm, văn hay mà điêu luyện.
Như: Bút pháp bài viết nầy rất già dặn.
Mừng em bút pháp đầy hương sắc,
Dệt gấm thùa hoa nét nét thần.
(Thơ Thuần Đức).
Bút: Cây viết. Thánh: Hàng Thánh, thiêng liêng huyền diệu.
Bút Thánh, bởi chữ “Thánh bút 聖 筆” là cây bút thiêng liêng, huyền diệu.
Thánh bút như chữ bút Thần, còn dùng để chỉ cây bút của các Đấng thiêng liêng giáng cơ để dạy đạo.
Gương chói Hiệp Thiên loà bút Thánh,
Ân chan Phước Thiện tạo nhơn hiền.
(Thơ Võ Thành Lượng).
Bút: Cây viết. Thần: Thiêng liêng, huyền diệu.
Bút Thần, như chữ “Thần bút 神 筆”, là cây bút thần kỳ, hay cây bút huyền diệu, thiêng liêng.
Đối với đạo Cao Đài, bút Thần còn chỉ cây bút của các Đấng thiêng liêng sử dụng để giáng đàn dạy Đạo cho chúng sanh.
Xem: Thần bút.
Chuyển luân thế sự đưa kinh Thánh,
Trừ diệt tà gian múa bút Thần.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Nhớ khi tại thế khêu đèn Huệ,
Chạnh lúc về Tiên giáng bút Thần.
(Thơ Phạm Mộc Bổn).
Bút: Cây viết. Trổ: Nảy ra, nhú lên từ thân cây, cành cây. Hoa: Bông hoa.
Bút trổ hoa là cây viết nảy ra bông hoa, ý chỉ cây bút viết ra văn chương đẹp như hoa.
Xem: Bút hoa.
Khơi nguồn thanh khí thơ tràn mộng,
Kết nghĩa quỳnh dao bút trổ hoa.
(Thơ Hoàng Nguyên).
1.- Bừa là tên một loại nông cụ, có răng bằng sắt, dùng sức kéo để làm nhỏ, nhuyễn đất hay sạch cỏ.
Như: Trâu kéo bừa, bừa cải tiến.
Dạy trẻ tớ sự nhà tiêm tất,
Cuốc, cày, bừa còn mất phải coi chừng.
(Phương Tu Đại Đạo).
2.- Bừa là làm nhỏ, làm nhuyễn đất, san bằng ruộng, hay làm sạch cỏ bằng cái bừa.
Như: Cày bừa, cày sâu bừa kỹ, chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa.
Đức Thanh Tâm có dạy: Ðạo nơi Tâm, thì Tâm ví như Ðiền, có Ðiền mà chẳng cày bừa đặng đem hột lúa gieo vào cho đặng trổ bông đơm hột thì ruộng tất phải bỏ hoang, bỏ hoang thì sâu bọ rắn rít xen vào ẩn trú.
Chịu cực khổ đắng cay biết mấy,
Cuốc, cày, bừa, gieo, cấy, gặt, đong.
(Kinh Sám Hối).
1.- Bữa là buổi ăn. Như: Ngày ăn hai bữa, bữa cơm bữa cháo, bữa giỗ.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Hôm nay, ngày toàn thể chức sắc, chức việc hiện diện đông đủ trong bữa tiệc thanh đạm nầy là bữa tiệc của Hội Thánh cố ý nhóm họp tất cả anh chị em trong đại gia đình chức sắc, chức việc cũng như nhơn viên các ban bộ, trước để ủy lạo, sau để tỏ tình cảm mến đối với những bạn Ðạo cùng chung chí hướng hầu thắt chặt dây thân ái, quyết hứa hẹn nắm tay nhau đi tận con đường giải khổ.
Ao rộng sâu chứa đầy giòi tửa,
Hơi tanh hôi thường bữa lẫy lừng.
(Kinh Sám Hối).
Cơm ngày hai bữa vừa no dạ,
Bạc chứa vàng chôn chẳng ích gì.
(Đạo Sử).
2.- Bữa là chỉ một ngày hay một phần ngày. Như: Bữa tối bận học bài, bữa chiều đi chơi.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu dạy: Phải giồi lòng trong sạch, lấy sự nhẫn nhịn làm gương soi mình hằng bữa, phải thương yêu nhau, giúp đỡ nhau dường như con một nhà, rồi cái thương yêu, sự giúp lẫn ấy sẽ dìu chung các con vào tận chốn Cực Lạc thiêng liêng, để tránh khỏi nơi khổ cùng tiều tuỵ.
Gắng công đạo đức trau hằng bữa,
Chiu chít đừng quên giống Lạc Hồng.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Dầu khó bữa mơi lo bữa tối,
Nghĩa gìn trọn Ðạo ấy giang san.
(Đạo Sử).
Bữa cày: Một ngày cày hay một phần ngày cày ruộng. Buông: Bỏ. Bữa giỗ: Một ngày hay buổi giỗ.
Bữa cày buông bữa giỗ, do câu tục ngữ “Hễ đặng bữa cày buông bữa giỗ” để nói phải chọn một trong hai việc, không thể làm cùng một lúc được, tức là không thể bắt cá hai tay.
Hễ đặng bữa cày buông bữa giỗ,
Phân thân đâu đặng hưởng hai bên.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
1.- Bức 幅 là một mảnh, một lá, một tấm hình vuông hay hình chữ nhựt. Như: Bức ảnh, bức tranh, bức tường.
Đức Nhàn Âm Đạo Trưởng có câu: Nếu bỏ Tâm kia ra ngoài mà rèn hình thể thì chẳng khác chi quỳ đọc kinh, đèn đốt đỏ hừng, mà thiếu bức Thiên Nhãn trên điện vậy.
Tròn nền đạo đức nghèo là quý,
Quý gặp hồng đem điểm bức son.
(Đạo Sử).
Tám cảnh vầy mở bức bình phong,
Bốn cõi khắp xây nền vân thuỷ.
(Tuý Sơn Vân Mộng).
2.- Bức 逼 là bắt ép. Như: Bức hiếp, bức bách, bức tử.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có đoạn dạy: Như kẻ làm quan ỷ quyền hiếp bức dân lành, đứa ngu nghịch cha phản bạn, làm rối luân thường, các con có biết vì tại sao chăng? Tại vô đạo.
Thả tôi tớ thôn lân húng hiếp,
Bức gái lành, ép thiếp đòi hầu.
(Kinh Sám Hối).
Dầu có của dạy đừng ỷ sức,
Đừng cậy tiền ép bức kẻ cô thân.
(Phương Tu Đại Đạo).
Bức 逼: Ép buộc, làm cho bị dồn vào thế khó khăn bắt buộc phải chịu đựng. Nghèo: Thiếu nhu cầu tối thiểu của đời sống vật chất.
Bức nghèo là áp bức kẻ nghèo khổ.
Hành người bế địch, trợ hoang,
Thừa năm hạn đói mưu toan bức nghèo.
(Kinh Sám Hối).
逼 索
Bức: Làm cho dồn vào thế bắt buộc phải làm điều hoàn toàn trái với ý mình muốn. Sách: Tìm, đòi, bức hiếp mà lấy.
Bức sách là hiếp đáp và sách nhiễu, tức làm khó dễ người để đòi tiền, đòi ăn.
Thiếu thốn chi con còn bức sách,
Thương nhau đồng loại cội và nhành.
(Đạo Sử).
Bức tranh: Bức hoạ, bức hình. Vân Cẩu: Mây và chó.
Bức tranh vân cẩu, do câu “Bạch vân thương cẩu 白 雲 蒼 狗”, mây trắng chó xanh, chỉ cuộc đời biến đổi.
Theo câu thơ của Đỗ Phủ: Thiên thượng phù vân như bạch y, tu du hốt biến vi thương cẩu 天 上 浮 雲 如 白 衣, 須 庾 忽 變 為 蒼 狗, nghĩa là mây nổi trên trời như áo trắng, chốc lát rồi lại hoá chó xanh.
Xem: Bạch vân thương cẩu.
Bức tranh vân cẩu không liền có,
Giấc mộng huỳnh lương thiệt hoá chơi.
(Thơ Chơn Tâm).
Câu chuyện tang điền trông quá hãi!
Bức tranh vân cẩu hợp rồi tan.
(Thơ Minh Phát).
1.- Bực là khó chịu vì không được như ý. Như: Bực bội, bực tức, chờ lâu phát bực.
Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Hai đàng bất đồng với nhau làm cho Bần Đạo ngồi giữa bực mình làm sao đâu!
Gắng công ắt đặng công mà chớ,
Buồn bực rồi sau mới có mừng.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Trẻ dại đôi khi lo bực trí,
Nghĩ càng phát giận lại buồn cười.
(Đạo Sử).
2.- Bực, như chữ “Bậc”, là thứ tự, chỉ về hạng thứ xếp theo trình độ cao thấp, trên dưới.
Thánh giáo Đức Chí Tôn trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có dạy: Thầy đã nói đạo đức cũng như một cái thang vô ngằn, bắc cho các con leo đến phẩm vị tối cao tối trọng là ngang bực cùng Thầy, hay là Thầy còn hạ mình cho các con cao hơn nữa.
Thành tín nhứt tâm cũng đáng khen,
Không sang tột bực cũng không hèn.
(Đạo Sử).
Hễ muốn cho hoà tiếng tranh kìm,
Kìm sửa phím tranh lên cho đúng bực.
(Phương Tu Đại Đạo).
3.- Bực hay “Bậc” là tiếng dùng để chỉ người thuộc hàng đáng tôn kính.
Như: Bực anh hùng, bực tiền bối, bực Thần Thánh.
Thánh giáo Chí Tôn có dạy: Còn bực chơn tu, tỉ như một hột giống tốt, hễ gieo xuống thì cây lên, cây lên thì trổ bông, rồi sanh trái mà biến biến sanh sanh càng tăng số.
Luật Nhơn quả để răn Thánh đức,
Cửa Luân hồi nhắc bực cao siêu.
(Kinh Tận Độ).
Sa vào đường tội khó nên hiền,
Cải ác xưa từng chiếm bực Tiên.
(Đạo Sử).
Trí cao thượng nhiễm từ trong bụng,
Con đẻ ra chắc đúng bực thông minh.
(Phương Tu Đại Đạo).
Bực: Khó chịu vì không được như ý.
Bực bội là khó chịu về một vấn đề gì, như nóng bức, chật hẹp, tối tăm...
Thuyết Đạo Hộ Pháp về Con Đường Thiêng Liêng Hằng Sống có câu: Nhà cửa ở thế-gian này là con vật chết, nơi Bạch Ngọc Kinh là con vật sống, biến hoá thay đổi như thể vận hành, xung quanh thoại khí bao trùm từ Nam chí Bắc, từ Đông qua Tây. Khối lửa ánh sáng ấy chúng ta ngó thấy như mặt trời vậy, mà ánh sáng mặt trời thì nóng nực, bực bội, còn ánh sáng nơi Toà Bạch Ngọc Kinh lại dịu dàng và huyền bí lắm, sung sướng khoái lạc lắm.
Nhà tối tăm bực bội gợi phiền,
Còn sáng láng tự nhiên vui vẻ.
(Phương Tu Đại Đạo).
Bực: Khó chịu vì không được như ý muốn. Tức: Cảm giác khó chịu khi có điều sai trái, vô lý nào đó tác động đến mình mà mình thấy đành chịu.
Bực tức là có thái độ bực bội và tức giận.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Thái Thượng Đạo Tổ có dạy: Muốn an tâm tỉnh trí và đè nén lửa lòng, cần phải có một nghị lực vô biên, một tâm trung quảng đại, thì mới khỏi bực tức với những trò đã vì mạng lịnh thiêng liêng phô diễn ở nơi thâm hiểm nặng nề nầy.
Giữa xã hội người ta thấy bao nhiêu sự bất bình bực tức, mạnh lấn yếu, chúng hiếp cô, vì lẽ thế lực kim tiền được tôn thờ sùng kính.
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
1.- Bưng là cầm bằng hai tay mà đưa lên, nâng lên.
Như: Bưng khay chén vào bếp, bưng thau nước nóng, bưng cơm rót nước.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Chúng ta thấy hình thể một vị Phật Mahâsarouth là một vị Chí Phật như Ðức Cakya Mouni đến thế gian bưng bình Bát vu để xin cơm đặng nuôi kẻ khổ.
Bút nở mùa hoa đã có chừng,
Chẳng như củi mục hốt mà bưng.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Một gánh một bưng chi tưởng dễ,
Ðeo mình cho nặng lết lang thang.
(Đạo Sử).
2.- Bưng là che, bịt kín bằng bàn tay hoặc bằng một lớp mỏng vải.
Như: Bưng bít, bưng mặt khóc, bưng mắt, bưng miệng cười, kín như bưng.
Ngài đi xem trông thấy quá cảm động, bưng mặt mà khóc, khi trở về Ngài than: “Ngô Ðạo Cùng Hỷ”.
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
3.- Bưng là vùng đồng lầy rộng lớn ngập nước, mọc nhiều cỏ lác.
Như: Đất bưng, bưng biền, ruộng bưng, triền bưng, lội qua bưng.
Kìa nhịp cầu bên đầu khe nhỏ,
Đông chòm cây, Tây có triền bưng.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Bưng: Vùng đầm lầy ngập nước, mọc nhiều cỏ lác. Biền: Bãi lầy ở ven sông, khi triền lên thì ngập nước.
Bưng biền là vùng đất có bưng, có biền, tức vùng có đồng nước lầy rộng lớn, có nhiều cỏ lác.
Bưng biền còn dùng để chỉ nơi tổ chức các cuộc kháng chiến chống xâm lăng.
Đạo Cao Đài giờ phút này nó bị 12 phái ở Hậu Giang hiệp nhứt, ở bưng biền kháng chiến vì Quốc Sự đó.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
1.- Bừng là bốc lên mạnh mẽ.
Như: Ngọn lửa bừng cháy mạnh mẽ, người bừng nóng, mặt đỏ bừng.
Giây oan trăm mối cột xiềng,
Lửa lòng bừng cháy hận phiền muội mê.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
2.- Bừng còn dùng để chỉ chợt mở con mắt ra.
Như: Chị ấy vừa bừng tỉnh, bừng con mắt dậy thấy mình tay không (Cung Oán).
Rẽ lối non sông thấy Ðộng đào,
Bừng con mắt tỉnh giấc chiêm bao.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Bửng: Hửng sáng, mới vừa sáng, như sớm bửng.
Bửng tưng là sáng hừng lên, tức mặt trời lộ ra bừng lên tia sáng.
Như: Trời đã sáng bửng tưng.
Hễ tiếng còi vừa túc bửng tưng,
Phải thức sớm theo chân công cấy.
(Phương Tu Đại Đạo).
Từ sáu tháng khá thường bồng ẵm,
Mơi bửng tưng, chiều sẩm mặt trời.
(Phương Tu Đại Đạo).
1.- Bước là dời chân, tức đặt chân để di chuyển thân thể đi đến nơi nào đó, Như: Bước vào nhà, rảo bước.
Thánh giáo Lý Giáo Tông dạy: Phần nhiều các đạo hữu dày công mà xây đắp nền đạo, nhưng sự ham muốn còn bôn chôn theo tình thế. Công đã nhiều mà bước tới nữa dường như ngán bước, gặp sự gay go đã mỏn lòng. Than thay! Tiếc thay!
Quyết chí Thiên đường men bước tới,
Phải nhiều máu thịt mới đồng bào.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Ngoài áng Ðào Nguyên sấn bước vào,
Thiên Thai Tiên đảnh trước cao cao.
(Thiên Thai Kiến Diện).
2.- Bước còn có nghĩa là khoảng cách giữa hai chân khi bước.
Như: Một bước đường đã đi qua, sân rộng khoảng hai mươi bước.
Theo đặng bước nào gìn bước nấy,
Trở lui e vướng lúc nghiêng nghèo.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
3.- Bước là nói một cảnh ngộ, tức chỉ hoàn cảnh gặp phải, coi như một giai đoạn nhỏ trong cuộc đời.
Như: Bước đường gian truân, lâm vào bước khó khăn, bước lỗi lầm, bước gian truân.
Thánh giáo Thầy có đoạn: Ðạo Trời khai dẫn bước lỗi lầm, đem kẻ hữu căn lánh vòng phiền não. Nếu chẳng bả bươn nhặt thúc bóng thiều, kiếp phù sinh qua dường nháy mắt.
Ðã nhiều danh lợi bước đua tranh,
Nhọc xác lao tâm hỏi có thành?
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Bước: dời chân, khoảng cách giữa hai chân khi bước. Đầu: Trước hết.
Bước đầu là chỉ giai đoạn của một quá trình nào đó còn chưa kết thúc.
Trong Thánh Ngôn Sưu Tập, Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Ôi có khác gì bước đầu đâu, công quả gì, trách nhậm gì, tại nơi con muốn bảo thủ lấy một mình. Lúc lập Thiên thơ, nếu chẳng trọn hành trình, chớ trách sao Thầy chẳng binh vực.
Mấy điều ấy làm cho con người tự tỉnh, đi tìm nguyên do của sự sống ấy, đó là khởi bước đầu sự tầm Ðạo.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
Bước: dời chân, khoảng cách giữa hai chân khi bước. Ngoặt: Chuyển đột ngột sang hướng khác.
Bước ngoặt là sự thay đổi quan trọng, căn bản, đôi khi đến một cách đột ngột.
Bước ngoặt lưu đày nung khí phách,
Đền thiêng kiến trúc vượt phi thường.
(Thơ Hoàng Nguyên).
Hay “Bước Ta Bà”.
Bước: Bước đi. Sa Bà (Ta Bà 娑 婆): Một cõi giới đầy ác độc và ô trược nên con người sống nơi đó phải chịu đựng sự nhẫn nhục.
Bước Sa Bà (Ta Bà) là bước chân xuống cõi trần gian, ý muốn nói đầu thai xuống làm người nơi cõi trần.
Con nguyện xin khuôn linh giúp sức,
Bước Ta Bà giục thức huệ quang.
(Kinh Thế Đạo).
Càn khôn để bước Ta Bà,
Đoạt cơ thoát tục tạo nhà cõi Thiên.
(Kinh Thế Đạo).
Bước: Dời chân, đi. Tục: Tầm thường, cõi trần.
Bước tục là bước chân vào cõi tục.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thầy có dạy: Thấy vậy chẳng đành, Thầy phải sửa cải Thiên thơ mà để cho mỗi đứa được có ngày giờ và thế lực mà dìu dắt nhau cho tròn phận sự, nhưng rốt lại, tà quyền cũng lấn lướt chất Thánh, bước tục dẫn chơn phàm, Thầy rất đau lòng mà dòm thấy con cái líu xíu bị lầm vào đường tà quái.
Công quả ngày xưa thiệt chẳng hèn,
Nợ trần bước tục phải đua chen.
(Đạo Sử).
Há đem tấc nguyện làm công quả,
Bước tục nhờ may bước khỏi vòng.
(Đạo Sử).
Am tự đóng chặt gài bước tục,
Nước Cam lồ cho phúc tiêu diêu.
(Nữ Trung Tùng Phận).
1.- Bươi là bới, vạch ra, lật xáo lên, gạt đi những gì phủ lên trên.
Như: Gà bươi đống rạ, bươi đống rác tìm vật bị mất.
Ó ré đầu nhà hờn giũa mỏ,
Gà bươi xó bếp đói chui đầu.
(Thơ Hộ Pháp).
2.- Bươi là moi, móc ra, khượi chuyện cũ.
Như: Bươi móc chuyện người khác, bươi chuyện cũ ra nói xấu người.
Gặp thây nuốt sống ăn tươi,
Vì bày thưa kiện móc bươi xúi lời.
(Kinh Sám Hối).
Bươi: Bới, moi ra, gạt đi những gì phủ lên. Móc: Cố tình nói điều không hay của người khác nhằm làm khó chịu.
Bươi móc là moi móc, bới móc những điều không tốt của người khác với dụng ý xấu, để nói, hoặc để cười.
Hại thay! Tinh thần của nhơn tình thế thái, không ai tìm tòi, không ai bươi móc đem chơn lý cho chúng ta ngó thấy...
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
Bưởi: Loại cây ăn quả, hoa màu trắng thơm, quả tròn và to, nhiều múi có tép mọng nước. Bòng: Cây cùng họ với bưởi, quả to, cùi dày, vị chua.
Bưởi bòng là trái bưởi và trái bòng, dùng để chỉ đua đòi, ăn diện.
Trọn lo cho mảnh quần hồng,
Cơm ăn no dạ, bưởi bòng làm chi!
(Ngũ Nương Giáng Bút).
Ai đời thắt dạ mà lường,
Bưởi bòng bụng gái vẫn thường giống nhau.
(Nư Trung Tùng Phận).
Bướm là loài bọ có bốn cánh mỏng, phủ một lớp phấn, thường gồm nhiều màu, có vòi để hút mật hoa.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Ta thấy cả vạn vật ấy đối với ta rất có cảm tình, bởi lẽ đồng sanh, như đứa con nít thấy con bướm đẹp đẽ thì mê lắm, tìm bắt, đến khi gặp con ong chích thì sợ sệt, mấy điều ấy làm cho con người tự tỉnh, đi tìm nguyên do của sự sống ấy, đó là khởi bước đầu sự tầm Ðạo.
Sáng đèn cánh bướm liệng xôn xao,
Lánh hoạ tua gìn hạnh đức trau.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Anh hùng gặp thế rán đua chen,
Con giống như con bướm mến đèn.
(Đạo Sử).
Bướm cũ: Con bướm xưa, chỉ người đàn ông trước, hay người chồng. Lìa huê: Lìa hoa, tức lìa khỏi người đàn bà, hay lìa người vợ.
Bướm cũ lìa huê, nói người con trai xa lìa người con gái, hay người chồng bỏ người vợ.
Chừ sao bướm cũ lìa huê,
Vườn thu vắng khách, ủ ê canh tàn.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Bướm: Loài con trùng tìm hoa để hút mật, tượng trưng cho người con trai.
Hoa: Bông, Loài cây toả hương, khoe sắc, tượng trưng cho người con gái.
Bướm vờn hoa cũng như những chàng trai hay tìm những cô gái để tỏ tình, chọc ghẹo. Bướm hoa còn dùng để chỉ sự tình tự.
Giây phút vui đùa câu hứa hão,
Bướm hoa trêu cợt tấm tình si.
(Thơ Hàn Sinh).
Bướm ong là hai loại sinh vật thích hút mật nhuỵ của bông hoa.
Bướm ong gặp hoa liền đáp vào để hút mật. Hoa ví với người con gái, ong ví với những chàng trai. Trai gặp gái thường hay trêu ghẹo tỏ tình.
Bướm ong dùng để chỉ kẻ chơi bời, ve vãn phụ nữ.
Xem: Ong bướm.
Nỗi mày liễu hình mai dục khách,
Hằng che duyên cho sạch bướm ong.
(Bát Nương Giáng Bút).
Còn gặp thuở xanh mày lịch sắc,
Dâng hình hoa treo mắt bướm ong.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Bướm ong chỉ việc trai gái tư tình.
Bướm ong xao xuyến giỡn ý nói lòng vương vấn chuyện trai gái với nhau.
Dạy kế hay đào lý ngăn rào,
Đừng để trống bướm ong xao xuyến giỡn.
(Phương Tu Đại Đạo).
Bướm tối: Bướm ban đêm. Mến đèn: Ưa ánh sáng.
Bướm tối mến đèn tức là bướm đêm bu vào ánh sáng đèn, được ví với những kẻ tầm thường, nơi nào có mồi danh bả lợi thì giống như những con thiêu thân hay bướm bu vào đèn mà chết.
Tuồng đời trọng trọng hèn hèn,
Chẳng qua bướm tối mến đèn xôn xao.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Bươn là tiếng Nam bộ, có nghĩa là nhanh chóng, vội vàng, lật đật. Như:, bươn bả, nó ăn bươn ba hột cơm rồi lật đật ra đồng.
Bươn còn dùng để chỉ đi nhanh, đi vội, phóng chạy, di chuyển với tốc độ nhanh.
Ca dao có câu: “Lên xe, xe gẫy ngựa bươn, trách lòng quân tử cầm cương không đều”.
Long Hoa sắp soạn khai trường,
Thi tài chọn đức, con bươn kịp giờ.
(Diêu Trì Kim Mẫu).
Hay “Bả bươn”.
Bươn: Nhanh chóng, vội vã, đi nhanh, đi vội.
Bươn bả (bả bươn) là vội vàng, hối hả, tức ở trạng thái khẩn trương nên có biểu hiện bơ phờ, xốc xếch.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Ðạo Trời khai dẫn bước lỗi lầm, đem kẻ hữu căn lánh vòng phiền não. Nếu chẳng bả bươn nhặt thúc bóng thiều, kiếp phù sinh qua dường nháy mắt.
Trống đã giục con nào lơi dạ,
Thúc hối mau bươn bả kịp kỳ.
(Diêu Trì Kim Mẫu).
Mười bảy tuổi cả làng rộn rã,
Những bao năm bươn bã học hành.
(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).
Ngài Hộ Pháp ủ ê trong dạ,
Khổ Hiền Trang bươn bả đến nơi.
(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).
Bươn: Nhanh chóng, vội vàng.
Bươn chải là xông xáo, xốc vác đua tranh hay lăn lộn để vươn lên trong cuộc sống.
Trong Ca dao Việt Nam có câu: “Hãy lo bươn chải với đời, Sao mai ló dạng chân trời rồi kia”.
Ðặng bậc Chí Tôn cầm quyền thế giới dìu dắt, rửa lỗi, mà chẳng bươn chải cho kịp thì, để đua nhau nghĩ tính về miếng đỉnh chung, nếu Thầy chẳng đại từ đại bi thì công quả đã chảy theo dòng nước.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
Bướng là khó bảo, không chịu nghe theo người khác, cứ theo ý mình.
Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Nếu không đủ biệt tài cầm cái khối báu do Chí Tôn để lại mà trau giồi làm cho có giá trị cứ do theo điều mới mẻ ấy thì chỉ có làm cha làm chủ bướng vậy thôi, nên cần phải biết sửa đương lại thì xã hội này sẽ đứng đầu hơn hết.
Mỗi bước đường đi cũng theo rình,
Ghen nói bướng người khinh thêm khó chịu.
(Phương Tu Đại Đạo).
Trí Bần Đạo ngày nay sanh chướng,
Viết tầm khào nói bướng chọc hờn.
(Phương Tu Đại Đạo).
1.- Bứt là rứt cho đứt, tức làm cho đứt lìa khỏi bằng cách giật mạnh.
Như: Bức tóc, bứt hoa, bò bứt dây chạy mất.
Trong Thánh Ngôn Sưu Tập, Thánh giáo Thầy có dạy: Nếu Thầy có xác thịt như các con thì biết bao phen Thầy đã ném cây Cân Thiêng liêng và bứt đứt trái tim yêu dấu của Thầy mà quăng đi luôn thể.
Đoạn tình ái đem quăng bể khổ,
Bứt hồng duyên tính bỏ non thề.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Gặp vợ ghen ông táo có rầu,
Bứt đem đổi cọng râu xâu bánh.
(Phương Tu Đại Đạo).
Đừng ỷ thế cậy tài dụng sức,
Rối tơ duyên toan bứt cho rồi.
(Phương Tu Đại Đạo).
2.- Bứt là tách lìa hẳn, rời xa ra. Như: Bứt tình tương thân tương ái, bứt ra khỏi hàng ngủ.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Thầy trông mong nơi các con, chớ nên vì chuyện nhỏ mọn phàm tục mà bứt hẳn mối tương thân tương ái, thì chẳng phải là đức tánh của tu hành đó.
Nên khi thoát xác phàm, sợi từ khí bứt ra rất dễ, nên liễu trần một cách êm ái.
(Thiên Đạo).
Bứt: Ngắt, cắt, dùng tay nhổ mạnh. Rứt: Giật mạnh cho rời ra, đứt ra.
Bứt rứt chỉ những cảm giác hoặc ý nghĩ làm cho trong người, trong lòng thấy khó chịu không yên.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Đêm nay Bần Đạo giảng đạo buổi bất thường, cũng như mấy kỳ trước, bất kỳ đi đâu về cũng vậy, ngó thấy toàn cả con cái Đức Chí Tôn nhao nhao trông ngóng để nghe tin tức, muốn hiểu hành tàng của Đạo, cho nên mỗi phen đi đâu về cũng thuật lại cho nghe, nhưng hôm qua bị mệt nghỉ một ngày, ngày kế đây thế nào cũng nói cho nghe, không thì trong lương tâm bứt rứt lắm.
Nơi Diêu điện, lưỡng ban chầu chực,
Nhớ đến con bứt rứt lòng già.
(Diêu Trì Kim Mẫu).
Lách tách mưa thưa đêm bứt rứt,
Bùi ngùi trống gióng tiếng đìu hiu.
(Thơ Thượng Sanh).
Khiến Nữ phái leo nheo than tức,
Khắp xa gần bứt rứt hỏi thăm.
(Thơ NĐS Hương Thanh).
Bứt: Tách lìa hẳn, rời xa ra. Xé: Làm cho rách, chia ra từng mảnh.
Bứt xé là tách lìa, rời ra hẳn để không còn bị liên hệ, ràng buộc gì nữa cả.
Trò áp bức trẻ con quá lẽ,
Quyết vùng lên bứt xé buộc ràng.
(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).
寶
Bửu, còn đọc là “Bảo” là quý báu. Như: Bửu toà, bửu điện, bửu ngai, tam bửu.
Thánh giáo Đức Chí Tôn trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có dạy: Thần là khiếm khuyết của cơ mầu nhiệm từ ngày Ðạo bị bế. Lập Tam Kỳ Phổ Ðộ nầy, duy Thầy cho Thần hiệp Tinh, Khí đặng hiệp đủ Tam bửu là cơ mầu nhiệm siêu phàm nhập Thánh.
Chí bửu nhơn sanh vô giá định,
Năng tri giác thế sắc cao ban.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Bửu toà thơ thới trổ thêm hoa,
Mấy nhánh rồi sau cũng một nhà.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
寶 影
Bửu: Quý báu, tiếng dùng để tôn xưng. Ảnh: Hình.
Bửu ảnh là hình ảnh hay khuôn hình của người đã chết, dùng để thờ phượng.
Trong Đạo Cao Đài, các vị chức sắc Đại Thiên phong đều có thờ bửu ảnh tại các biệt điện, nên mỗi khi đến ngày vía của vị Chức sắc ấy, Hội Thánh đều có nghi lễ rước Bửu ảnh.
Bửu ảnh Đức Hộ Pháp được thờ tại Hộ Pháp Đường, Đức Quyền Giáo Tông được thờ tại Giáo Tông Đường...
Ngắm vật nhớ người đà vắng bóng,
Nhìn pho bửu ảnh vẫn mơ hình.
(Thơ Hiến Pháp).
Hằng năm kỷ niệm lễ triều Thiên,
Bửu ảnh cung nghinh tế điện tiền.
(Thơ Huệ Phong).
寶 貝
Bửu: Tiếng tôn xưng, chỉ sự quý báu. Bối: Vật quý.
Bửu bối (Bảo bối), là đồ vật quý hiếm.
Bửu bối còn là những đồ vật có tác dụng sinh ra phép thuật của các Đấng Thần Tiên hay yêu quỷ.
Trong Toà Thánh Tây Ninh, dàn Bát Bửu là tượng hình tám món Bửu Bối của Bát Tiên.
Lược sách binh thư dâng bửu bối,
Bao trùm hậu khí giúp nhà Nam.
(Liễu Nhứt Chơn Nhơn).
寶 珠
Bửu (Bảo): Tiếng dùng để tôn xưng, chỉ sự quý báu. Châu: Ngọc.
Bửu châu là châu ngọc quý giá, dùng để chỉ vật quý báu như châu ngọc.
Bửu châu hay Mâu Ni Bửu Châu, Đạo gia gọi là Cửu Khúc Minh Châu do sự luyện tinh nghịch chuyển lên hoá thành Khí, rồi đem Khí ấy hiệp với Thần để tạo thành Thánh thai. Trong phép luyện đạo gọi Thánh thai, tức là Chơn thần huyền diệu.
Thiên lương của quý buổi ban đầu,
Trau luyện đắc thành vật bửu châu.
(Thơ Thái Đến Thanh).
寶 殿
Bửu (Bảo): Tiếng tôn xưng, chỉ sự quý báu. Điện: Nơi dùng để thờ Đức Chí Tôn và các Đấng thiêng liêng.
Bửu (Bảo) điện là nơi dùng để thờ Đức Chí Tôn và các Đấng thiêng liêng.
Thánh Giáo Thầy dạy: Trước khi thủ cơ hay là chấp bút, thì phải thay y phục cho sạch sẽ, trang hoàng, tắm gội cho tinh khiết, rồi mới đặng đến trước bửu điện mà hành sự, chớ nên thiếu sót mà thất lễ.
Lịch xinh Bửu Điện tầng cao ngất,
Trụ khối đức tin sánh nhựt hồng.
(Thơ Thượng Cảnh Thanh).
Bàn Đào Hội Yến nghinh Kim Mẫu,
Bửu Điện linh quang phủ đỉnh trầm.
(Thơ Huệ Phong).
寶 亭
Hay “Bảo đình”.
Bửu (Bảo): Tiếng tôn xưng, chỉ sự quý báu. Đình: Nơi dùng để hội họp hoặc thờ phượng.
Bửu đình, như chữ “Bửu điện”, dùng để chỉ nơi thờ Đức Chí Tôn, Ngọc Hoàng Thượng Đế.
Xưa Toà Thánh dập dìu lai vãng,
Nay Bửu Ðình hiu quạnh lụy nhìn.
(Thơ Thượng Phẩm).
寶 法
Bửu (Bảo): Tiếng tôn xưng, chỉ sự quý báu.
1. Pháp: phép bí tích.
Bửu pháp là những phép bí tích thiêng liêng và huyền diệu trong Đạo Cao Đài.
Muốn trọn hai chữ Phổ Ðộ, phải làm thế nào? Thầy hỏi? Phải bày Bửu pháp chớ không đặng giấu nữa.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.).
2. Pháp: Phương pháp luyện Đạo.
Bửu pháp có nghĩa là các pháp môn tu Thiền, Tịnh luyện, tức là những bí pháp luyện Đạo quý báu.
Trong hàng Hạ thừa, ai giữ trai kỳ 10 ngày trở lên được thọ truyền Bửu pháp, vào Tịnh Thất có người chỉ luyện Đạo.
(Tân Luật).
3. Pháp: Pháp thuật.
Bửu pháp, đồng nghĩa với Bửu bối, là những vật mầu nhiệm của các Đấng Thiêng Liêng, như Bửu pháp Giáng Ma Xử, Kim Tiên của Hộ Pháp...
Bát Quái Ðài xây đầy bửu pháp,
Ðứng trên điều khiển có Lôi Công.
(Thiên Thai Kiến Diện).
Hay “Bửu toạ (Bảo toạ) 寶 座”.
Bửu toà do chữ “Bửu toạ” là chỗ ngồi hay cái ngai quý báu, chỉ nơi ngự của Đức Chí Tôn, Ngọc Hoàng Thượng Đế.
Bửu Toà còn có nghĩa là Toà sen của chư Phật, và chư Bồ Tát.
1.- Bửu toà:
Bửu toà thơ thới trổ thêm hoa,
Mấy nhánh rồi sau cũng một nhà.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Tam Kỳ Phổ Độ tùng Thiên lịnh,
Nhị Trấn Oai Linh ngự Bửu toà.
(Thơ Huệ Phong).
2.- Bảo toạ:
Giữa chốn danh sơn tòng có bá,
Bên ngôi bảo toạ hạc kề quy.
(Thơ Hoàng Nguyên).
寶 漿
Bửu: Quý báu, quý giá. Tương: Chất nước. Hoặc dùng để gọi trà hoặc rượu.
Bửu tương, ở đây chỉ nước trà thơm tho, quý báu.
Mai xuân nguyệt cúc vị trà hương,
Kỉnh lễ thành tâm hiến bửu tương.
(Bài Dâng Trà).
寶 塔
Bửu (Bảo): Quý báu. Tháp: Cái tháp nhiều tầng.
Bửu tháp là một công trình xây dựng bằng vôi gạch, dưới to trên cao thì nhỏ dần, có nhiều tầng.
Ban đầu tháp được xây ở Tây Vực, sau truyền sang Trung Quốc, rồi đến nước ta.
Bửu tháp dùng để thờ Phật, có khi tàng trữ Kinh sách, hoặc dùng để chôn cất các vị cao tăng. Bửu tháp còn được gọi là “Phù đồ”.
Trong đạo Cao Đài, Bửu tháp được dùng để an táng Liên đài của các Chức sắc Đại Thiên phong như bên Hiệp Thiên Đài: Ba vị Hộ Pháp, Thượng Phẩm, Thượng Sanh và Thập Nhị Thời Quân. Bên Cửu Trùng Đài hay Phước Thiện: Đầu Sư hay phẩm tương đương trở lên.
Liên đài khói toả trông ngùi dạ,
Bửu tháp mây che ngắm chạnh lòng.
(Thơ Chơn Tâm).
Chánh Môn nhìn lại uy linh chiếu,
Bửu tháp trông lên triết lý bày.
(Thơ Huệ Phong).
Hồn thiêng tách dặm nương Long mã,
Bửu tháp hoàn thi thế nấm mồ.
(Thơ Vạn Năng).
)
)(
__)_(__
__(_____)__
(((_________)))
) ׀ ( |
Danh mục vần B
BA
• Ba
• Ba cung sáu viện
• Ba chi
• Ba chìm bảy nổi
• Ba đào
• Ba đông
• Ba giềng
• Ba kỳ
• Ba La Mật
• Ba lần dâng dép
• Ba lơn
• Ba lược sau thao
• Ba mối
• Ba mươi sáu cõi
• Ba nhánh
• Ba quân
• Ba Sắc Đạo
• Ba sanh
• Ba sanh hương lửa
• Ba tấc hơi
• Ba ton
• Ba Thần phẩm
• Ba thu
• Ba Trấn
• Ba trợn
• Ba vạn sáu ngàn ngày
• Ba vòng vô vi
BÁ
• Bá
• Bá Di
• Bá Di Thúc Tề
• Bá Đào Giác Ai
• Bá đạo
• Bá huê viên
• Bá Lý Hề
• Bá nạp
• Bá nạp quang
• Bá Nha
• Bá Nha Chung Tử
• Bá Tử
• Bá quan
• Bá tánh
• Bá tòng
• Bá tuế nhân
• Bá tùng
• Bá tước
• Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ
• Bá trạo
• Bá vơ
• Bá Vương
• Bá xàm
BÀ
• Bà
• Bà chằn
• Bà Nguyệt
BẢ
• Bả
• Bả vinh hoa
BÃ
• Bã
BẠ
• Bạ
BÁC
• Bác
• Bác ái
• Bác lãm
• Bác luật
BẠC
• Bạc
• Bạc bẽo
• Bạc chứa vàng chôn
• Bạc đãi
• Bạc đầu
• Bạc mệnh
• Bạc phần
• Bạc phận
• Bạc phước
• Bác phước vô duyên
• Bạc tình
• Bạc tình bội nghĩa
• Bạc tóc da mồi
• Bạc vàng
BÁCH
• Bách niên
BẠCH
• Bạch
• Bạch Đằng Giang
• Bạch đầu
• Bạch Khỉ
• Bạch khỉ tìm đường sơn khê
• Bạch ngọc
• Bạch Ngọc chung
• Bạch Ngọc Chung Đài
• Bạch Ngọc Kinh
• Bạch phát
• Bạch tuyết thần quang
• Bạch thố
• Bạch thủ thành gia
• Bạch Vân Động
• Bạch Vương Đại Hội
BÁI
• Bái
• Bái Công
• Bái kỉnh
• Bái mạng
• Bái phục
BÀI
• Bài
• Bài bác
• Bài bạc
• Bài trừ
• Bài vị
• Bài xích
BÃI
• Bãi
• Bãi buôi
• Bãi cát
BẠI
• Bại
• Bại hoại
• Bại lộ
BAY
• Bay
• Bay bướm
• Bay hơi
• Bay nhảy
BÀY
• Bày
• Bày biện
• Bày đặt
• Bày trò
• Bày vẽ
BẢY
• Bảy
• Bảy bước
• Bảy chiếc ngai
• Bảy dây oan nghiệt
• Bảy hai địa cầu
• Bảy Lão
• Bảy năm Dũ Lý
• Bảy nổi ba chìm
• Bảy thiếp
• Bảy ức
BÁM
• Bám
BAN
• Ban
• Ban bố
• Ban Đạo Sử
• Ban hành
• Ban Kỳ Lão
• Ban Kiến Trúc
• Ban khen
• Ban Nhà Thuyền Bát Nhã
• Ban Phép Lành
• Ban quyền
• Ban sắc
• Ban sơ
• Ban Tổng Trạo
• Ban Thế Đạo
• Ban thưởng
BÁN
• Bán
• Bán đồ nhi phế
• Bán lận buôn gian
• Bán mình
• Bán nài
• Bán nguyệt mua hoa
• Bán tín bán nghi
BÀN
• Bàn
• Bàn bạc
• Bàn Cai Quản Phước Thiện
• Bàn Cổ
• Bàn chông
• Bàn đào
• Bàn Đào Hội Yến
• Bàn hoàn
• Bàn Khê
• Bàn linh
• Bàn luận
• Bàn tính
• Bàn Trị Sự
• Bàn viết
BẢN
• Bản chân
• Bản chất
• Bản lĩnh
• Bản ngã
• Bản thân
• Bản xứ
BẠN
• Bạn
• Bạn bè
• Bạn hàng
• Bạn lữ
• Bạn tác
• Bạn trăm tuổi
• Bạn vàng
BÀNG
• Bàng Cử
• Bàng môn
• Bàng quan
• Bàng Quyên Tôn Tẫn
BẢNG
• Bảng
• Bảng hổ
• Bảng lảng
• Bảng ngọc
• Bảng Phong thần
• Bảng vàng
BÁNH
• Bánh
• Bánh ếch đi, bánh quy lại
• Bánh lái
• Bánh trái
• Bánh vẽ
BÀNH
• Bành Thành
• Bành trướng
BẢNH
• Bảnh
BAO
• Bao
• Bao biếm
• Bao Công chẩn bần
• Bao Chửng
• Bao dung
• Bao đành
• Bao đồng
• Bao giờ
• Bao hàm
• Bao Hắc Tử
• Bao la
• Bao lăm
• Bao lâu
• Bao lơn
• Bao nả
• Bao nhiêu
• Bao nhiêu công quả bấy nhiêu phần
• Bao phen
• Bao phủ
• Bao quản
• Bao quát
• Bao Tỷ
• Bao tóc
• Bao thuở
• Bao trùm
BÁO
• Báo
• Báo Ân Từ
• Báo bổ
• Báo đáp
• Báo hiếu
• Báo quốc
• Báo Quốc Từ
• Báo ứng
• Báo ứng nhãn tiền
BÀO
• Bào
• Bào ảnh
• Bào chữa
• Bào huynh
• Bào lạc
BẢO
• Bảo
• Bảo an
• Bảo bọc
• Bảo cô
• Bảo dưỡng
• Bảo đảm
• Bảo Đạo
• Bảo Học Quân
• Bảo hộ
• Bảo lãnh
• Bảo Pháp
• Bảo quốc
• Bảo sanh
• Bảo Sanh Quân
• Bảo tinh
• Bảo toàn
• Bảo tồn
• Bảo tồn quy cổ
• Bảo tồn chúng sanh
• Bảo tồn vạn linh
• Bảo Thế
• Bảo Thể
• Bảo thủ
• Bảo thủ Chơn Truyền
• Bảo trọng
• Bảo Văn Pháp Quân
BÃO
• Bão
• Bão bùng
• Bão tố
BẠO
• Bạo
• Bạo hành
• Bạo ngược
• Bạo tàn
• Bạo Tần
BÁT
• Bát
• Bát âm
• Bát bửu
• Bát bửu nang
• Bát Cảnh Cung
• Bát chánh đạo
• Bát Đạo Nghị Định
• Bát hồn
• Bát hồn nhạc khí
• Bát hồn vận chuyển
• Bát Nương Diêu Trì Cung
• Bát ngát
• Bát nhã
• Bát quái
• Bát Quái Đài
• Bát quái đài là hồn
• Bát Quái Mạo
• Bát Tiên
• Bát vu
BẠT
• Bạt
• Bạt tiến
• Bạt tuỵ siêu quần
BÁU
• Báu
• Báu vật
BÀU
• Bàu Cà Na
BẮC
• Bắc
• Bắc cầu
• Bắc cầu bồi lộ
• Bắc du
• Bắc đẩu
• Bắc Đẩu Bội Tinh
• Bắc Đẩu Nam Tào
• Bắc khuyết
• Bắc Nam
• Bắc Tông
BẰM
• Bằm
BĂN
• Băn khoăn
BẮN
• Bắn
• Bắn bình
• Bắn sẻ
BĂNG
• Băng
• Băng ngàn
• Băng tuyết
• Băng thanh
BẰNG
• Bằng
• Bằng chứng
• Bằng địa
• Bằng hữu
BẲNG
• Bẳng
BẮP
• Bắp
BẮT
• Bắt
• Bắt ấn
• Bắt bén
• Bắt chước
• Bắt gió nắn hình
BẶT
• Bặt
• Bặt tăm
• Bặt tăm hơi
BẬC
• Bậc
• Bậc phẩm
BÂY
• Bây giờ
BẤY
• Bấy
• Bấy chầy
• Bấy chừ
• Bấy lâu
• Bấy nay
• Bấy nhiêu
BẦY
• Bầy
• Bầy trâu đốt đít
BẪY
• Bẫy
• Bẫy dò
• Bẫy vô thường
BẬY
• Bậy
• Bậy bạ
BẤM
• Bấm
BẦM
• Bầm gan
BẨM
• Bẩm
• Bẩm tính
BẦN
• Bần
• Bần bạc
• Bần cùng
• Bần dùng
• Bần hàn
• Bần khổ
• Bần tiện
BẨN
• Bẩn
• Bẩn thỉu
BẬN
• Bận
• Bận bịu
• Bận lòng
BÂNG
• Bâng khuâng
BẬP
• Bập bẹ
• Bập bồng
BẤT
• Bất
• Bất bình
• Bất cập
• Bất công
• Bất chánh
• Bất di bất dịch
• Bất diệt
• Bất định
• Bất đồng
• Bất đức
• Bất giáo nhi thiện
• Bất hạnh
• Bất hiếu
• Bất hiếu hữu tam
• Bất hoà
• Bất hoặc
• Bất hủ
• Bất kỳ
• Bất luận
• Bất lực
• Bất lương
• Bất mãn
• Bát minh
• Bất mục
• Bất ngôn nhi mặc tuyên đại hoá
• Bất nghĩa
• Bất nhơn
• Bất phân
• Bất sanh bất diệt
• Bất tài
• Bất tài vô dụng
• Bất tận
• Bất thân
• Bất thường
• Bất trắc
• Bất tri thế sự
• Bất trung
• Bất Vi
BÂU
• Bâu
BẦU
• Bầu
• Bầu bạn
• Bầu linh
• Bầu linh gậy sắt
• Bầu nước đai cơm
• Bầu Nhan
• Bầu nhiệt huyệt
• Bầu phong nguyệt
• Bầu tiên
BẬU
• Bậu
BÉ
• Bé
• Bé bỏng
• Bé thơ
BÈ
• Bè
BẺ
• Bẻ
• Bẻ bai
• Bẻ gãy chữ đồng
• Bẻ liễu
BẼ
• Bẽ bàng
BÉN
• Bén
BÈN
• Bèn
BÉO
• Béo
BÈO
• Bèo
• Bèo bọt
• Bèo tạt
• Bèo mây
• Bèo nước
• Bèo nước tái ngộ
• Bèo nước tan hiệp
• Bèo trôi
BẸO
• Bẹo
BÊ
• Bê tha
• Bê trễ
• Bê trễ phận sự
BẾ
• Bế
• Bế địch trợ hoang
• Bế ngũ quan
• Bế tắc
BỀ
• Bề
• Bề thế
BỂ
• Bể
• Bể ái
• Bể bình Lý Uyên
• Bể dâu
• Bể hẹn
• Bể hoạn
• Bể khổ
• Bể hẹn non thề
• Bể Thánh
• Bể trần
BỄ
• Bễ
BỆ
• Bệ
• Bệ ngọc
BÊN
• Bên
BẾN
• Bến
• Bến giác
• Bến khổ
• Bến khổ đường mê
• Bến mê
• Bến nước
• Bến Phạm
• Bến tục
• Bến Tương
• Bến Thánh
• Bến trần
BỀN
• Bền
• Bền bỉ
• Bền công
• Bền chặt
• Bền chí
• Bền dạ
• Bền gan
• Bền giữ
• Bền lòng
• Bền sức
• Bền tâm
• Bền vững
BỆNH
• Bệnh
• Bệnh viện
BẾP
• Bếp
• Bếp núc
BÊU
• Bêu
BI
• Bi
• Bi đát
• Bi hoan
• Bi kịch
• Bi thương
• Bi trí dũng
BÍ
• Bí
• Bí mật
• Bí pháp
• Bí pháp tâm truyền
• Bí tích
BÌ
• Bì
BỈ
• Bỉ
• Bỉ ngạn
• Bỉ ổi
BĨ
• Bĩ cực
• Bĩ thới
BỊ
• Bị
• Bị đè dưới núi Ngũ Hành
• Bị cáo
BIA
• Bia danh
• Bia tạc
BÍCH
• Bích Cung
• Bích Du
BIẾM
• Biếm
• Biếm nhẻ
BIÊN
• Biên ải
• Biên cương
• Biên chép
• Biên đình
• Biên soạn
• Biên tái
• Biên thành
• Biên thuỳ
BIẾN
• Biến
• Biến cố
• Biến chuyển
• Biến dịch
• Biến đổi
• Biến hình
• Biến hoá
• Biến hoá vô cùng
• Biến loạn
• Biến quyền
• Biến sanh
• Biến tạo Chơn thần
• Biến tướng
• Biến thân
• Biến thể
• Biến thiên
BIỀN
• Biền
• Biền biệt
BIỂN
• Biển
• Biển ái
• Biển cạn non mòn
• Biển đổi non dời
• Biển hao núi lở
• Biển hẹn non thề
• Biển hoá vườn dâu
• Biển hoạn
• Biển mê
• Biển mê chèo chiếc thuyền tình
• Biển Thánh
• Biển Thánh rừng Nho
• Biển thề non hẹn
• Biển Thước
• Biển trần
• Biển trí non nhân
BIỆN
• Biện
• Biện phân
BIẾNG
• Biếng
• Biếng nhác
BIẾT
• Biết
• Biết bao
• Biết đâu
• Biết mấy
• Biết người biết mặt lòng đâu biết
BIỆT
• Biệt
• Biệt dạng
• Biệt điện
• Biệt ly
• Biệt nghiệp
• Biệt phân
• Biệt phu
BIỂU
• Biểu
• Biểu dương
• Biểu hiệu
• Biểu lộ
• Biểu tượng
• Biểu thị
BỊN
• Bịn
• Bịn rịn
BINH
• Binh
• Binh biến
• Binh cách
• Binh cô tướng quả
• Binh đao
• Binh khí
• Binh lính
• Binh lửa
• Binh nhung
• Binh thư
• Binh vực
BÍNH
• Bính ngọc Tương Như
BÌNH
• Bình
• Bình an
• Bình bát
• Bình bồng
• Bình đẳng
• Bình địa
• Bình địa phong ba
• Bình yên
• Bình minh
• Bình Ngô đại cáo
• Bình phong
• Bình quyền
• Bình sanh
• Bình tĩnh
• Bình thân
• Bình thuỷ
• Bình thuỷ tương phùng
BỈNH
• Bỉnh chánh
BỊNH
• Bịnh
• Bịnh chướng
• Bịnh hoạn
• Bịnh liến
BÍT
• Bít
• Bít chịt
BỊT
• Bịt
BO
• Bo bo
BÓ
• Bó
• Bó buộc
• Bó đũa
• Bó gối
BÒ
• Bò
• Bò lết
BỎ
• Bỏ
• Bỏ con lo cháu
• Bỏ dở
• Bỏ giả tầm chơn
• Bỏ hoang
• Bỏ phế
• Bỏ thừa
BÓC
• Bóc
• Bóc lột
BỌC
• Bọc
• Bọc thây
BÓI
• Bói
• Bói phượng
BOM
• Bom đạn
• Bom nguyên tử
BON
• Bon chen
BÒN
• Bòn
• Bòn công chuộc quả
• Bòn mót
BỌN
• Bọn
BÓNG
• Bóng
• Bóng ác
• Bóng bọt
• Bóng câu
• Bóng cu
• Bóng chim tăm cá
• Bóng dâu
• Bóng dờn
• Bóng dương
• Bóng hình
• Bóng hồng
• Bóng khuất
• Bóng mát cội tòng
• Bóng ngà nữ dung
• Bóng ngân
• Bóng ngọc
• Bóng nguyệt
• Bóng nhật
• Bóng quạ
• Bóng quang âm
• Bóng quế
• Bóng sắc
• Bóng tang du
• Bóng tối
• Bóng tùng
• Bóng thiềm
• Bóng thiều
• Bóng thỏ
BÓP
• Bóp méo
BỌT
• Bọt
• Bọt bèo
• Bọt nước
BÔ
• Bô vải
BỐ
• Bố
• Bố cáo
• Bố đức
• Bố đức thi ân
• Bố hoá
• Bố kinh
• Bố thí
• Bố trí
BỒ
• Bồ
• Bồ bặc
• Bồ đề
• Bồ Đề Dạ
• Bồ đoàn
• Bồ liễu
• Bồ Tát
• Bồ tiên
• Bồ tiên thị nhục
BỔ
• Bổ
• Bổ báo
• Bổ ích
• Bổ khuyết
• Bổ nhiệm
BỘ
• Bộ
• Bộ công Di Lạc
• Bộ dạng
• Bộ hạ
• Bộ Nhạc
• Bộ Pháp Chánh
• Bộ tịch
• Bộ từ khí
BỐC
• Bốc
• Bốc rời
BỘC
• Bộc
• Bộc dâu
• Bộc khởi
• Bộc lại
• Bộc lộ
• Bộc tính
BÔI
• Bôi
• Bôi dơ
• Bôi xoá
BỐI
• Bối
BỒI
• Bồi
• Bồi bổ
• Bồi công lập đức
• Bồi đắp
• Bồi hồi
• Bồi tửu
• Bồi thường
BỔI
• Bổi
BỘI
• Bội
• Bội ân
• Bội công
• Bội nghĩa
• Bội nghĩa ân
• Bội phản sanh dưỡng giáo hoá
• Bội phần
• Bội sư
• Bội tín
• Bội Tinh
BÔN
• Bôn
• Bôn ba
• Bôn chôn
• Bôn xu
BỐN
• Bốn
• Bốn bể
• Bốn biển
• Bốn biển năm hồ
• Bốn Điều Quy
• Bốn đức
• Bốn mùa
• Bốn mùa tám tiết
• Bốn ngàn năm
• Bốn Ngọc nữ
• Bốn phang
• Bốn phương
• Bốn vách
BỒN
• Bồn
• Bồn chồn
BỔN
• Bổn
• Bổn đạo
• Bổn lai diện mục
• Bổn nguyên
• Bổn phận
• Bổn phận làm dân
• Bổn tánh
• Bổn tâm Thầy ngự
BỘN
• Bộn
• Bộn bàng
• Bộn bề
BÔNG
• Bông
• Bông gòn
BỒNG
• Bồng
• Bồng ẵm
• Bồng bế
• Bồng bột
• Bồng con trông chồng
• Bồng Dinh
• Bồng Doanh
• Bồng Đảo
• Bồng Lai
• Bồng sơn
BỔNG
• Bổng trầm
BƠ
• Bơ ngơ
• Bơ phờ
• Bơ thờ
• Bơ vơ
BỚ
• Bớ
BỜ
• Bờ
• Bờ bến
• Bờ dương
• Bờ dương bóng phụng
• Bờ giác
BỞ
• Bở
BỢ
• Bợ
• Bợ đỡ
• Bợ ngợ
BỜI
• Bời bời
BỞI
• Bởi
BỢM
• Bợm
BỠN
• Bỡn
• Bỡn cợt
BỢN
• Bợn
• Bợn nhơ
• Bợn sầu
• Bợn tục
• Bợn thế
• Bợn trần
• Bợn trược
BỚT
• Bớt
BRAHMA
• Brahma
BU
• Bu
BÚ
• Bú
BÙ
• Bù
• Bù chì
• Bù nhìn
BÚA
• Búa
• Búa Lỗ Ban
• Búa rìu
• Búa việt
• Búa việt cờ mao
BÙA
• Bùa
BỦA
• Bủa
• Bủa đức
• Bủa giăng
BÙI
• Bùi
• Bùi Ái Thoại
• Bùi ngùi
BỤI
• Bụi
• Bụi bặm
• Bụi hồng
• Bụi thế
• Bụi trần
BÙN
• Bùn
• Bùn lầy
• Bùn than
BÚNG
• Búng
• Búng rảy
BÙNG
• Bùng
BỤNG
• Bụng
• Bụng trống hạc nội
BUỘC
• Buộc
• Buộc ràng
• Buộc trói
BUỔI
• Buổi
BUỒM
• Buồm
• Buồm hạnh
BUÔN
• Buôn
• Buôn bán
• Buôn hương
• Buôn hương bán phấn
• Buôn tảo bán tần
BUỒN
• Buồn
• Buồn bã
• Buồn bực
• Buồn cười
• Buồn chia thảm sớt
• Buồn hiu
• Buồn ngủ
• Buồn rầu
• Buồn tanh
• Buồn teo
• Buồn tênh
• Buồn tình
• Buồn tủi
• Buồn thảm
BUÔNG
• Buông
• Buông lời
• Buông lung
• Buông trôi
BUỒNG
• Buồng
• Buồng hương
• Buồng the
BÚT
• Bút
• Bút hoa
• Bút mực
• Bút ngọc
• Bút nghiên
• Bút pháp
• Bút Thánh
• Bút Thần
• Bút trổ hoa
BỪA
• Bừa
BỮA
• Bữa
• Bữa cày buông bữa giỗ
BỨC
• Bức
• Bức nghèo
• Bức sách
• Bức tranh vân cẩu
BỰC
• Bực
• Bực bội
• Bực tức
BƯNG
• Bưng
• Bưng biền
BỪNG
• Bừng
BỬNG
• Bửng tưng
BƯỚC
• Bước
• Bước đầu
• Bước ngoặt
• Bước Sa Bà
• Bước tục
BƯƠI
• Bươi
• Bươi móc
BƯỞI
• Bưởi bòng
BƯỚM
• Bướm
• Bướm cũ lìa huê
• Bướm hoa
• Bướm ong
• Bướm ong xao xuyến giỡn
• Bướm tối mến đèn
BƯƠN
• Bươn
• Bươn bả
• Bươn chải
BƯỚNG
• Bướng
BỨT
• Bứt
• Bứt rứt
• Bứt xé
BỬU
• Bửu
• Bửu ảnh
• Bửu bối
• Bửu châu
• Bửu điện
• Bửu đình
• Bửu pháp
• Bửu toà
• Bửu tương
• Bửu tháp
|